Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai
tiếng gì. Vẫn là con người trong sạch.
Thay vì một vòng hoa, một nén nhang, hay một lời ai điếu, tôi xin mượn một câu
thơ của Thâm
Tâm để đưa Võ Thị Thắng về nơi an nghỉ cuối cùng. Hoa hoè, nhang
khói, điếu văn này nọ (e) không thiếu trong tang lễ “trọng thể” dành cho chị –
theo như tường trình của VOV:
“Vào lúc 7h30 sáng nay (25/8), tại Nhà tang lễ Bộ Quốc
phòng thành phố Hồ Chí Minh, Lễ truy điệu bà Võ Thị Thắng, nguyên Ủy viên Ban
chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng Cục du lịch đã được tổ
chức trọng thể…”
“Đọc điếu văn tại lễ truy điệu, trong niềm tiếc
thương sâu sắc, ông Hoàng Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch,
Trưởng ban lễ tang xúc động ôn lại cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của
bà Võ Thị Thắng, người con của Nam Bộ thành đồng với ‘nụ cười chiến thắng’ đã
trở thành một trong những biểu tượng cao đẹp cho thế hệ anh hùng trong cuộc
kháng chiến giành độc lập – tự do – thống nhất đất nước. Tinh thần Võ Thị Thắng
là tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo.”
Tôi sinh ra đời sau Võ Thị Thắng khá lâu nên không biết chi
nhiều về “cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang” của chị. Do tìm hiểu thêm
cũng biết được ba điều bốn chuyện, xin được chia sẻ với mọi người.
Theo vnexpress:
Bà Thắng sinh ra tại xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long
An. Năm 9 tuổi, bà bắt đầu bước chân vào con đường cách mạng bằng việc
tham gia đưa thư, mang cơm cho cán bộ trong hầm bí mật. Năm 13 tuổi, bà thi đậu
vào trường công lập Gia Long Sài Gòn (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai); 16
tuổi là thành viên Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Bến Lức – Long An và khi
17 tuổi, được tổ chức điều về Sài Gòn hoạt động trong phong trào thanh niên –
sinh viên – học sinh...
Đất nước thống nhất, người phụ nữ với nụ cười chiến thắng
năm nào bước sang chính trường khi tham gia công tác tại Thành đoàn, rồi ở Hội
Liên hiệp phụ nữ TP HCM, sau đó được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch thường trực Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, được trúng cử vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá
VIII và Khóa IX; Đại biểu Quốc hội các khóa IX, X và XI, rồi Tổng cục trưởng Du
lịch, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Cu Ba.
Phóng viên Nguyễn Thị Nhi, tạp chí Hướng Nghiệp,
cũng cho biết thêm đôi nét về quá trình hoạt động cách mạng của Võ Thị Thắng:
“Chị được giao nhiệm vụ điều tra quy luật hoạt động của
tên Trần Văn Đỗ và tổ chức ám sát hắn. Trần Văn Đỗ là Trưởng phường Phú Lâm, quận
6 Sài Gòn nhưng thực chất là tên mật vụ chỉ điểm có nhiều nợ máu với nhân dân.
Ngày 27-7-1968, sau khi nắm tình hình địch, chị cải trang để đột nhập vào nhà
tên Đỗ cùng với hai đồng chí yểm trợ vòng ngoài. Hôm đó khác với thường lệ, tên
Đỗ đi ngủ sớm, chị tiến thẳng đến giường tên Đỗ lên đạn bắn hai lần nhưng cả
hai phát súng đều không nổ. Thấy động, tên Đỗ tỉnh dậy, chị bắn lần thứ ba
nhưng không trúng. Cảnh sát ập đến bắt chị. Suốt đêm đó và mấy ngày sau chúng
tra tấn chị một cách dã man bằng nhiều cách: tra điện, đóng đinh vào ngón tay
nhưng chị quyết không khai báo.”
Ngày 2-8-1968, chúng đưa chị ra tòa và kết án 20 năm tù
khổ sai về tội chủ mưu giết người. Đứng trước tòa, khi nghe phán xét, chị Thắng
cười và nói: ‘Tôi chỉ sợ chính quyền của các ông không tồn tại để thi hành bản
án về tôi’. Một phóng viên nước ngoài đã chụp được nụ cười của chị Võ Thị Thắng
trong giây phút đó. Bức ảnh với tên gọi ‘Nụ cười chiến thắng’ đã trở thành biểu
tượng cho khí phách anh hùng của phụ nữ Việt Nam.”
Nói cho chính xác thì tội danh của chị Võ Thị Thắng là “khủng
bố,” chứ không phải là “chủ mưu giết người.” Ông Trần Văn Đỗ, may mắn, thoát chết
nhưng nhiều người khác thì không.
Cùng với những loạt đạn pháo kích từ ngoại ô vào trung tâm
thành phố, Lực Lượng Vũ Trang Nội Thành của chị Thắng và đồng đội đã gieo kinh
hoàng cũng như tang tóc cho không ít người dân miền Nam – trong một thời gian
không ngắn. Chỉ xin ghi lại vài ba trường hợp để rộng đường dư luận:
Báo Dân
Việt, số ra hôm 30 tháng 4 năm 2011, có bài viết (“Tôi Ám Sát Người
Sắp Làm Thủ Tướng Sài Gòn”) của ông Vũ Quang Hùng:
Trưa 10.11.1971. Một tiếng nổ long trời tại ngã tư Cao Thắng
– Phan Thanh Giản khiến ông Nguyễn Văn Bông – Giám đốc Học viện Quốc gia Hành
chính, người chuẩn bị nắm chức thủ tướng (ngụy) chết tại chỗ…
Tôi nhớ dặn dò của đồng chí Tám Nam – Phó ban An ninh T4 (tức khu vực Sài
Gòn-Gia Định): “Để bảo đảm bí mật, chúng ta sẽ đặt cho mục tiêu bí số G.33. Cần
giữ bí mật đến phút chót và theo tin tức tình báo, G.33 đang chuẩn bị lên nắm
ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ
ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn
hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ
quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch”.
GS Nguyễn Văn Bông năm 1967. Ảnh AP. Nguồn Flickr
Giáo sư Nguyễn Văn Bông không phải là người “trí thức có uy
tín” đầu tiên, hay duy nhất, bị cách mạng … trừ khử bằng chất nổ và lựu đạn.
Hai năm trước đó, G.S. Lê Minh Trí cũng bị giết chết theo cùng một cách.
Bộ Trưởng Giáo Dục Lê Minh Trí bị ám sát năm 1969.
Ảnh: Minh
Đức
Một nạn nhân khác nữa là nhà báo Từ Chung. Cái chết của ông được cậu con trai
12 tuổi kể lại như sau, theo bản tin của nhật báo Chính
Luận, số ra ngày 1 tháng 1 năm 1966:
“Cháu nghe thấy tiếng còi ô tô của bố cháu. Cháu chạy ra
đứng phía trong cửa để chờ bố, cháu thấy bố cháu xuống xe rồi mở thùng xe đằng
sau để lấy cái gì đó. Thế rồi có hai người đi gắn máy dừng lại, cháu nhìn rõ xe
hiệu Goebel sơn màu xanh. Một người xuống xe tay cắp cặp da, mặc quần mầu xanh
màu da trời, áo xanh lạt có sọc, trạc độ 26 tuổi. Người ấy mở cặp da lấy ra một
khẩu súng và tiến lại gần bố nhắm bắn luôn mấy phát liền. Bố cháu gục xuống.”
Vẫn theo bản tin thượng dẫn:
Từ Chung đỗ tú tài tại Hà Nội, vào Nam, ông được học bổng
du học tại Thụy Sĩ năm năm và đậu bằng Tiến Sĩ Kinh Tế tại Fribourg năm 1961. Về
nước, ông được Linh Mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Đại Học Huế mời giảng dạy
tại trường Luật, và sau đó được mời làm ủy viên trong Hội Đồng Cố Vấn Kinh Tế
nhưng ông từ chối vì yêu nghề viết báo.
Từ Chung viết rất nhiều thể loại, từ điểm sách, văn chướng,
văn hóa đến chính trị, kinh tế v.v… nhưng nổi tiếng nhất là các bài xã luận về
kinh tế. Từ Chung là người Việt Nam đầu tiên đã giản dị hóa môn học khô khan
khó hiểu là kinh tế học, đưa môn học này về gần với quần chúng bình dân. Những
bài xã luận của Từ Chung về kinh tế được độc giả thuộc mọi trình độ khác nhau,
từ các ông giáo sư đại học, các chuyên viên kinh tế thượng thặng đến các cậu
sinh viên, các bà nội trợ đều thấu hiểu tường tận những biến chuyển kinh tế có ảnh
hưởng trực tiếp đến mình. Những bài viết xã luận về kinh tế của ông thường được
một số trí thức gọi đùa là “mục kinh tế chợ” đã có ảnh hưởng rất lớn đến mọi tầng
lớp giai cấp và thế hệ độc giả khác nhau. Về dịch thuật, Từ Chung có dịch cuốn
“Bí Danh” (Secret Name) của Lâm Ngữ Đường.
Dù không phải là thầy bói, tôi vẫn đoán chắc (như bắp) là cả
ba nhân vật thượng dẫn đều có chung tội danh: thuộc thành phần phản động. Với tội
danh này thì không chỉ vài ba mà (có lẽ) phải đến năm bẩy triệu người Việt đã bỏ
mạng vì bom đạn, mã tấu, hay cuốc xẻng.
Cái giá để tạo dựng cái Chính Quyền Cách Mạng mạng hiện nay
– rõ ràng – không rẻ nhưng thành quả thì rất đáng ngờ, và vô cùng đáng ngại! Nó
cũng đáng ái ngại như cái cách mà truyền thông của Đảng và Nhà Nước Việt Nam
xưng tụng “nụ cười chiến thắng” của chị Võ Thị Thắng gần nửa thế kỷ qua.
Trong một cuộc phỏng vấn dành do BBC,
hôm 23 tháng 8 năm 2014, ông Hạ Đình Nguyên (nguyên Chủ Tịch Ủy Ban Phối Hợp
Hành Động Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, một tổ chức có liên hệ với các lực lượng
chính trị, quân sự của miền Bắc Việt Nam, hoạt động ở Sài Gòn trước 1975) phát
biểu: “Tôi thấy trong cuộc đời của chị Thắng, chị không mang tai tiếng gì. Vẫn
là con người trong sạch.”
Là Ủy Viên Trung Ương Đảng, và cũng là Đại Biểu Quốc Hội
liên tiếp ba khoá (IX, X và XI) rồi là Tổng Cục Trưởng Du Lịch mà “không mang
tai tiếng gì” thì chị Võ Thị Thắng – rõ ràng – là một đảng viên nhưng … tốt!
Dưới bài phỏng vấn ông Hạ Đình Nguyên, đọc được trong trang
FB của BBC, độc giả Lê
Bích Đào cũng đã biểu đồng tình một cách ngắn ngọn và thi vị: “Chị
VTT là người sống trong sạch’ gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Thiệt là
qúi hoá hết sức!
Dù vậy, tôi chỉ có đôi chút suy nghĩ lăn tăn. Hay nói theo
ngôn ngữ của thi ca là vẫn (nghe) “sao có tiếng sóng ở trong lòng.”
Chúng ta có nhất thiết phải đốt cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai quần,
và hàng chục triệu mạng người – thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để tạo nên
một đống bùn bẩn thỉu nhầy nhụa như hiện tại không?
Tưởng Năng Tiến