1.
Tu viện Dòng Tên xây dựng thời Pháp thuộc, nghe đâu từ đầu năm 1911 xây bằng
đá, cốt sắt trông đồ sộ. Tu viện nằm sâu trong rừng bao bọc bởi hàng thông già,
cây cỏ um tùm, xa xa một vài ngọn đồi trọc nhô lên giữa da trời xanh lơ lơ làm
cho cảnh vật thêm đìu hiu và lạ lẫm. Tu viện nằm riêng một cõi, ít người lui tới,
mặt tiền hướng ra biển, tọa trên một vuông đất rộng giữa hai lằn biên Quảng Nam
và Thừa Thiên. Sau hiệp định Giơ-Neo; Pháp rút lui vào năm 1955 được bề trên giao
cho cha Mùi cai quản. Họ đạo tập trung dưới thung lũng cạnh bờ biển, phần đông
là dân chài, đâu chừng chưa tới năm mươi hộ gia đình. Dân cư sống rãi rác dưới
những mái nhà lá đơn sơ, xiêu vẹo. Lên thăm viện đường đi dốc vách có khi phải
đánh xe vào thăm viện và bới một ít khô cá, khô mực, mắm muối để cha Mùi dùng độ
bữa. Dần dà tình ‘cha con’ trở nên thân quen và gần gũi. Phụng dưỡng tu viện
không lâu thì cha Mùi qua đời vào đầu năm 1960. Viện trống không và vắng bóng
thế gian. Ai xui; lọt tai cậu Cẩn, thời đó cậu quyền cao, chức trọng, hét ra lửa
nên chi nói tới đâu trên dưới chấp hành nghiêm chỉnh, không dám nhúc nhích với
lại tánh khí cậu nóng nảy. Cậu Cẩn gởi văn thư yêu cầu sở tài chánh Huế cấp
ngân sách cho việc sửa chửa tu viện.
Ít tháng sau có chiếu chỉ của tòa Tổng Giám Mục chuyển giao
tu viện cho Xơ-Mari Nguyễn thị Thới đứng ra điều hành; đi theo Xơ-Mari có dì
Phúc và dì Hạnh cùng đến nhận nhiệm sở. Điều hành và sắp xếp viện tu học thì
Xơ-Mari lên phẩm mẹ Bề Trên (lúc đó bà Thới đã tới tuổi sáu mươi ngoài).
Xơ-Mari có lệnh cho thu nhận nữ tu ở hai tỉnh và một vài nơi về tu tập và chăm
sóc bệnh nhân phong cùi ở dưới làng Lăng Cô (thuộc tỉnh Quảng Nam).Tu viện thiết
kế theo lối kiến trúc miền Nam nước Pháp; trông bề thế và kiên cố. Cửa lớn viện
làm bằng gỗ qúy, chạm trổ hoa văn theo kiểu cổ tích trông oai nghiêm và trang
trọng; suốt ngày đêm cửa đóng then cài như chận chướng ngại vật xâm phạm; biến
tu viện thành dòng tu kín.
2.
Sau mười lăm năm tu viện đã phục chức hơn ba mươi nữ tu xuất viện đi phục vụ một
số bệnh viện, trường học và nhà thờ trong nước. Xơ-Mari Thới giờ già hơn trước
nhưng còn minh mẫn; tu sinh coi chị Bề Trên như mẹ của mình. Trên dưới răm rắp
một khuôn theo phép đạo; tách ra hai thế giới bên trong và bên ngoài. Ngoài việc
tu tập các chị lao động việc trồng trọt để có thêm lương thực xanh. Họ quên đi
cảnh giới, sống âm thầm và chịu đựng trong cô đơn, tiếp cận rộng rãi với bốn
mùa thiên nhiên hoặc hứng chịu những ngọn gió xoáy từ biển tát lên ào ạt tợ như
muốn đánh sập cửa viện để tuôn vào phòng riêng của mấy nữ tu. Nữ tu sợ cảnh
này; sợ gió uy hiếp mà thương tổn đến thể xác và tinh thần. Chạm phải tội tư tưởng.
Ở đó chỉ có sự bạo dạng của rừng và núi đá gầm lên để chống trả một định mệnh
đã chôn vùi và lãng quên; để rồi tu viện cũng như người tu chỉ còn cách cúi đầu
lặng đứng giữa thế gian này…mà thở dài.
Đứng trong bếp lửa than hồng của một sáng đầu đông; mẹ Bề
Trên cho gọi nữ tu An na Lê thị Nầy lên chánh phòng. Thả đôi đũa bếp xuống, vội
vã lau mặt, vuốt tóc, khoát áo dòng tu đến gặp mẹ. Nữ tu hồi hộp sợ vấp phải điều
gì hoặc chờ lệnh sai bảo. Xơ-An na nhẹ tay đẩy cửa vào chánh phòng. Gương mặt
hiền như nai tơ, mỉm cười cúi đầu chào. Lặng đứng! -Con ngồi xuống. Mẹ Bề Trên
nói. Chị An na ấp úng muốn nói điều gì, nhưng mẹ Bề Trên đã tiếp lời: -Tôi nhận
được thư gởi từ người thân của con xin được phép cho về quê để mai táng hài cốt
thân sinh con ở Quảng Trị. Chị An na tỏ ra ngạc nhiên về điều này, vì; hơn hai
mươi mấy năm qua chưa một lần nghe về lai lịch cha mẹ mình, giờ lại nghe đi dời
hài cốt. -Thưa mẹ có thật như vậy không? Chị An na nói. Mẹ Bề Trên mỉm cười âu
yếm tỏ ra thông cảm ý nghĩ lạ của chị An na. Nhưng cả hai trầm tĩnh trong giây
lát; gương mặt chị An na trở lại bình thường, đầu cúi xuống và lắng nghe. -Đây
điạ chỉ và tên người muốn gặp con. Cứ việc đi bao giờ xong chuyện rồi hãy về,
công việc không có gì quan trọng để con phải ngại. Lo thu xếp mà lên đường. Mẹ
Bề Trên nói.
3.
Chuyến tàu lửa đến Huế đúng mười hai giờ trưa. Chị An na ngủ lại đêm ở Dòng
Chúa Cứu Thế. Sáng hôm sau đáp xe đò đi Quảng Điền gặp người thân. -Bà có phải
bà Thắm. Lê thị Thắm? Chị An na nói. -Xơ Nầy phải không? Thắm nói. Họ ngồi bên
nhau và tâm sự nguồn cơn tại sao có cuộc gặp hôm nay. Trong căn nhà xưa cổ, mái
ngói, vách vôi, mục rữa xuống cấp, sinh khí ủ dột phản phất mùi rượu và thuốc
lá. Cảnh sống của bà Thắm không mấy lành mạnh. Phong cách hiện ra nét
phóng đảng, liều lĩnh tuồng như bất mãn đời. Tuổi chừng năm muơi nhưng trông bốn
mươi kém cho nên bề ngoài còn phấn son, loè nhèo. -Mời nước. Bà Thắm nói. Xơ-Nầy
ngồi lặng yên ít nói, nghe tới đâu ngúc đầu tới đó không thắc mắc hay nghi ngờ
gì cả. Thái độ dịu dàng của nữ tu có phần thu hút người đối diện. Bà Thắm không
còn ngại ngùng nói huỵch toẹt đời mình cho Xơ-Nầy nghe. Những gì bà Thắm nói ra
như lời xưng tội trước Chúa. Đôi mắt an ủi của chị An na là một thương cảm cho
những kẻ đau khổ. Bà Thắm cầm tay Xơ-Nầy với đôi mắt buồn: “Năm 1972 tôi cứu cô
ra khỏi lằn bom lửa; người chết như rơm rạ dọc đường cái. Cuộc chiến bùng nỗ dữ
dội, tôi và mọi người chạy nhưng không biết chạy về đâu. Dọc bên hào rãnh người
chết ngập, tôi nghe tiếng trẻ con khóc ơi ới, một đứa bé chừng như ba, bốn tuổi
nằm dưới bụng mẹ đầy máu, bên cạnh người đàn ông cũng đầy máu; chết tiệt. Tôi
kéo đứa trẻ ra khỏi tay mẹ, ôm vào người tiếp tục chạy cho tới khi đến một thị
xã gần đó…Đứa trẻ khóc miết vì nhớ cha mẹ và đói. Tôi; lúc ấy 17 tuổi và cha mẹ
tôi cũng chết trong cuộc chiến. Tôi chăm sóc cô được một tháng thì gởi cô vào
viện mồ côi. Với tên thường gọi (do tôi đặc) Lê thị Nầy. Tìm hiểu ra cô đã được
dòng tu nhận lãnh và cho tới nay được 28 năm mới gặp lại nhau”.Tôi nghĩ cô sẽ
không đến vì mọi thứ đã đổi thay. Với Xơ-Nầy khi ra khỏi tu viện như chim sổ lồng,
tất cả xa lạ, ngoài những gì đã nghĩ; mọi thứ hấp dẫn và lôi cuốn. Gió từ đâu
thổi tới bung ngược áo dòng của Xơ-Nầy, lạnh dưới đôi chân. Nữ tu giữ lại thế
quân bình và chậm rãi bước đi; tiếp cận cảnh đời tự nhiên tâm hồn rộng mở sau
hơn hai mươi năm sống trong tu viện. Tự nhiên nữ tu cảm thấy phơi phới tâm hồn.
Trời ở ngoài đời xuống chậm và huyên náo.Càng huyên náo càng lắm chuyện. Xơ-Nầy
qùi lạy làm dấu thánh trước khi lên giường ngủ. Bên kia căn buồng bà Thắm còn
rì rào, có tiếng đàn ông và khói thuốc len qua buồng của Xơ-Nầy; rồi lại nghe
tiếng cười khúc khích, bỡn cợt. Lạ vô cùng! Xơ-Nầy bịt tai, nhắm mắt, nhốt trí
óc lại để đừng phạm tội với nước Trời.
4.
Chuyến xe đò đi Quảng Trị chật ních cá hộp, phần đông là dân buôn bán. Hàng ghế
đầu dành cho khách đi ‘độc cước’ không gồng không gánh. Ngồi bên cạnh nữ tu là chàng
thanh niên dường như ba mươi ngoài, tác phong nghệ sĩ, bởi; có mang theo cây
đàn. Ép mình trong tư thế khiêm nhường và tránh né. Xơ-Nầy cảm thấy áy náy vì đụng
phải người đàn ông, mà xưa nay nhìn bằng đôi mắt qua loa cho có nhìn chớ chả có
ấn tượng. Bên cạnh Xơ-Nầy bà Thắm ngậm điếu thuốc thơm phì phào, mắt lim dim
như nhớ về cảnh xưa. -Bà có chắc là ông già chôn người chết thời đó còn sống
không? Xơ-Nầy nói. -Tôi nắm cả rồi. Đừng lo cứ theo tôi. Bà Thắm nói. Xe chạy mệt
mỏi với dặm đường. Thanh niên đưa kẹo ho mời nữ tu và nói bâng quơ vài câu chuyện
ngoài lề. Nữ tu mỉm cười, nhìn qua khung cửa xe, gió bụi bay lung tung. Hình
như cái dịu dàng đó lôi cuốn chàng nghệ sĩ hay là chàng muốn tỏ tài nghệ ngón
đàn độc chiêu của mình cho nữ tu biết? Chàng thanh niên nói, nữ tu nghe và mỉm
cười. Xơ đến bến nào? Chàng nghệ sĩ nói. Xơ-Nầy không trả lời mặc cho xe lắc
lư. -Chắc không xa Hiền Lương. Bà Thắm nói. Xe đổ bến thì trời nhá nhem tối. Bà
Thắm và Xơ-Nầy ngủ lại khách sạn. Khách sạn lúc này đông khách, đại đa số đến dự
kỷ niệm ba năm thành lập khách sạn (1997/2000) có mời một số văn nghệ sĩ tăm tiếng
đến trình diễn. Bà Thắm đưa áo dài, giày cao gót, môi son cho Xơ-Nầy. -Mặc vào
đi! Đêm vui có ăn uống và văn nghệ, đờn ca, nhảy múa, ăn vận cho dễ ngó thì
hơn. Không nhẽ đến đó mặc đồ dòng. Bà Thắm nói. Tiếng nhạc dội từ dưới lên.Tiếng
nhạc ít nghe nhưng khi nghe thì lại giựt đôi chân, mình mẩy rung rung. Xơ-Nầy cố
đuổi mấy thứ đó ra khỏi người. Không thay đồ mặc nguyên áo dòng. Bên ngoài trời
tối sậm chỉ nghe tiếng còi xe ầm vang đủ để hình dung không có luật giao thông.
Khách đến dự đông ngập, không còn thấy chỗ trống cho một bàn ăn. Trước cửa
phòng ăn bà Thắm phục trang loè loẹt, đi giày cao, phấn son, xịt nước hoa nội
hóa phản ra từ người; đứng bên cạnh là nữ tu, với chiếc áo dòng màu vỏ trứng
sáo, trông không hòa điệu nhưng nhờ có nụ cười hiền hòa mà làm cho nữ tu có nét
đẹp khác người. Họ ngồi trong một góc chật hẹp. Nhạc ào ạt vung vãi, dội tiếng
rền vang át cả tiếng người. Không xa một người đàn ông đầu hói, ngậm vố thượng
du mỉm cười đưa tình. Thắm đáp lại bằng mắt. Trên bục diễn chàng thanh niên nhận
ra nữ tu ngồi cạnh trên chuyến xe đò Huế/Quảng Trị cùng về chiều nay. Âm nhạc,
muỗng nĩa trộn vào nhau nghe rát. Trên sàn nhảy bà Thắm ôm người đàn ông đầu
hói vai kề vai, lả lướt nhảy vũ điệu xì-lô trông tình tứ. Bà Thắm ném nụ cười
thân ái đến Xơ-Nầy. Cuộc diễn thưa dần gần nửa đêm. Bà Thắm không về phòng cùng
với Xơ-Nầy. Trở lại phòng ăn uống ngồi đợi bà Thắm. Giữa lúc này người thanh
niên với cây đàn sà tới chào đón niềm nở. Xơ-Nầy cúi đầu mỉm cười không nói.
Đêm chuẩn bị đi ngủ. Hơi gió se lạnh thổi nhẹ vào những màn mỏng giăng ở cửa. Cả
hai ngồi trong thế bị động cũng khá lâu. Không biết họ có trao đổi gì không. Chỉ
nghe tiếng đàn phổ nhẹ bên tai nữ tu.Tóc người nghệ sĩ đổ xuống trên cây đàn…
5.
Tới Hiền Lương bà Thắm tìm gặp ông Triệu, người đã chôn tập thể một số tử thi
mùa hè đỏ lửa 1972. Ông Triệu tuổi ngoài tám mươi sức khoẻ kém, thường nằm viện.
Ông kể rõ điạ điểm nơi chôn nhưng khó mà nhận ra hài cốt ai là người thân của
mình trong mồ chôn chung. Cả hai tuyệt vọng lủi thủi đi về. Xơ-Nầy qùi gối làm
dấu thánh cầu nguyện bên cạnh hố chôn. Bà Thắm đi cùng với phu mộ ở một khoảng
xa. Trời xám đặc như muốn mưa, xung quanh là rừng cây khô chỉ thấy một vài con
quạ đen đậu trên cành chờ mồi. Ngày sau; cả hai trở lại Quảng Điền. Xơ-Nầy thu
xếp để về tu viện vào chuyến tàu cuối. Đường hướng lên tu viện trời ngả chiều,
gió từ biển luồn vào áo dòng chị An na, chị cảm thấy lạnh cơ thể, bụng đói bước
đi dốc ngược người bạc phơ và mệt nhọc sau hơn mười ngày trở về quê cũ. Đứng
trước cửa tu viện chị An na thở phào nhẹ nhõm, ngước nhìn trời đêm như thầm nhủ
điều gì.
Chưa tới một tuần ở tu viện Xơ-Nầy nhận hung tin: ‘O Thắm đã
tự sát. Về gấp’.Trở lại Quảng Điền tìm gặp Hoàng Thái người nghệ sĩ với cây đàn
để trợ giúp những việc khó trước mắt. Thái tỏ ra vui mừng khi gặp lại Xơ-Nầy.
Chàng tưởng là biền biệt nghìn trùng, nhưng; gặp nhau giữa thiên đường và điạ
ngục là hạnh ngộ. Tìm hiểu nguyên nhân cái chết của bà Thắm chỉ có cơ quan biết
thực giả của vụ án; theo đời truyền khẩu thì Thắm vô bưng sau năm 1972 và làm
việc nhà nước cho tới nay; không chồng, không con nhưng lại lắm tình yêu và nhiều
thứ bon chen hơn thiệt. Thư di chúc đề: ‘Căn hộ này thuộc Xơ-An na Lê Thị Nầy
làm sở hữu chủ’ Xơ-Nầy không vui khi nhận việc thừa kế. Vì; đây không phải là
phần gia sản dành cho mình. Xơ-Nầy và Thắm chỉ là người dân nước lã. Qúi nhau ở
cái tình bà Thắm cứu sống đời mình. Đem tâm tình phơi mở với Thái. Quyết định
cuối cùng của Xơ-Nầy hiến bất động sản cho dân Quảng Điền làm chỗ trú cho người
nghèo và tật nguyền. Cả hai không xem trọng việc để lại hồi môn. Họ trao đổi suốt
đêm. Đêm lôi cuốn vào mộng ảo, âm vang nhạc khúc đêm cuối cùng ở Quảng Trị là một
gợi nhớ, một kỷ niệm chôn giấu. Quên hết để sống thực. Đêm ở khách sạn; Xơ-Nầy
ăn vận bình thường, trang phục những gì bà Thắm để lại, những bước nhảy trong
vòng tay là cả một ao ước được sống lại một lần. Chính thời điểm đó đã đánh thức
linh hồn Xơ-Nầy bằng một khám phá mới; mới hơn cả sự thật. Họ hẹn nhau ở tiệm
ăn khách sạn; mượn đây như đã một lần gặp gỡ. Hôm nay; trong không khí này nhớ
lại những gì họ đã nói trong mắt, trong tim. -Cô thích nhảy không? Thái nói.
-Tôi chưa bao giờ biết nhảy. Xơ-Nầy nói. -Tôi bày cho. Thái nói. Đêm hôm ấy
Xơ-Nầy nhấp rượu đỏ. Hình như rượu đã ngấm vào người và Xơ-Nầy mất kiểm soát…Họ
đưa nhau về thì trời đã qua đêm. Sáng sớm Xơ-Nầy mặc lại áo dòng và nhẹ bước rời
khỏi khách sạn. Nửa giờ sau Thái còn trên giường ngủ, cong vòng như con chuột
chết khô trong hủ nếp. Trời bỗng nhiên rực sáng. Xung quanh không một bóng người,
cảnh vật êm đềm, nhẹ nhàng ở một thị trấn miền xa.
Sáu tháng sau Chị-An na Nầy nhận lễ thệ nguyện tấn phong
trong hàng ngũ giáo sĩ. Và; làm việc với mẹ Bề Trên Ma ri Nguyễn thị Thới cho tới
khi mẹ Bề Trên qua đời. Tu viện không có gì thay đổi. Mãi sau năm 1975 tu viện
đặc dưới sự quản lý nhà nước. Xơ-Nầy được chính quyền và tòa Tổng Giám Mục đề bạt
làm tổng giám thị tu viện dưới quyền mẹ Bề Trên Xơ-Ma Đờ Len Đặng Thị Phúc. 30
tháng 4 năm 2000 sanh nhật Xơ-Nầy ở tuổi ba mươi mốt. Một chặn đường tu và sống
của dì phước Lê thị Nầy ./.
Võ Công Liêm
(ca.ab.yyc / ch.pek 4/2016)
(ca.ab.yyc / ch.pek 4/2016)
* LTG: Tên, tuổi nhân vật và địa dư trong truyện là hư-cấu.
Trùng hợp là chuyện ngẫu nhiên ngoài ý muốn.
- Giơ-Neo (tức Geneva/Genève) thuộc Thụy Sĩ. Nơi họp hội nghị
chia đôi đất nước Việtnam ở vĩ tuyến 17; năm 1954.