*Tưởng nhớ BÙI DIỆP (1963 – 2018)
1.
Mấy ngày mưa liên tục này, bị chứng đau-lưng-bởi-thời-khí-ẩm-ướt hành hạ, cũng
làm như thể mình là một đạo sĩ trong truyện Tàu thất chí mà ẩn mình vào mật thất
để tịnh tu, tôi nằm nhà đọc lại cuốn tản văn Về Ngang Quán Không của Bùi Diệp
quá cố. Nhà thơ/người viết tản văn tài hoa, nhân hậu này, dù với riêng tôi thì
chỉ có được vài năm kết giao thật ngắn ngủi trên FB nhưng đã thầm lặng thành bạn
vong niên tri kỷ mà tôi vô cùng quý trọng trong giới thi ca, viết lách.
Trong tập tản văn, nhiều lần Bùi Diệp đã nhiều lần nhắc đến dòng sông Dinh đầy ấn
tượng ở đất quê Phan Rang của anh. Nhà thơ trìu mến và trân trọng nhận đây là
dòng sông tuổi nhỏ của anh, nơi mà “Vẻ thôn dã và hoang dại của bờ sông, đồng
ruộng, trảng cát, của nắng gió trời cho luôn gợi về môt không gian quê mùa và
thanh bình”(1), hay “Dòng sông quê và buổi chiều đông sẽ ở lại mãi nơi miền ký ức
dù đôi chân ta dẫu có đi suốt một đời người cũng không tới tận cùng sông.”(2).
2.
Đúng ra, khi ra đời ở đất biển Nha Trang là cũng gốc quê miềnTrung với Bùi Diệp,
nhưng do hoàn cảnh và thời cuộc, bố mẹ tôi bị viên tỉnh trưởng quốc tịch Pháp
thời đó ra lịnh tống xuất vĩnh viễn khỏi tỉnh Khánh Hòa, nên mới 2-3 tuổi tôi
đã phải theo hai đấng sinh thành tội đồ của mình vào đất Sài Gòn nương thân –
cho đến mãi tận ngày nay. Do vậy, tuổi nhỏ tôi không may mắn như tuổi nhỏ của
Bùi Diệp là được có một dòng sông ngay nơi mảnh đất mình ra đời – dòng sông
thân thương đóng vai chứng nhân rồi để sau này chiếm luôn một mảng vô cùng lớn
trong kho ký ức tuổi nhỏ gồm đầy những nỗi vui buồn, những trò vụng dại, những
cảm xúc và ước mơ đầu đời hay chuẩn bị vào đời…
Đến thời 10 – 11 tuổi tôi mới được trở lại đất Nha Trang. Đó là vào các dịp nghỉ
hè hằng năm, tôi thường được về cả 2- 3 tháng ở nhà bà dỉ ruột nằm ở thôn Phường
Cũi, phía đông Nha Trang xưa, sau này là phường nội thành Phương Sài.
Lãng đãng trong trí nhớ tôi là con sông Phường Cũi – một nhánh nhỏ của sông Cái
chảy qua cái thôn đông dân lao động, toàn nhà cửa lụp xụp, ngày xưa chỉ được
coi là gần như một vạt ngoại ô nghèo nàn của thành phố Nha Trang phồn thịnh. Do
chưa có những luật lệ nghiêm nhặt như ngày nay về vệ sinh – môi trường trong
khu dân cư nên thời đó trong phường có một vài nhà làm nước mắm, bà con quen gọi
là nhà thùng, cứ ung dung tỏa cái mùi khăm khắm của xác cá phân hũy nửa vời
trong muối hột vào khắp những lối đi đầy cát hay lát đá xanh trong xóm làng.
Thôn làng bị ô nhiễm môi trường là thế nhưng tôi, cậu bé ngày ấy vẫn có nhiều cảm
tình đối với con sông Phường Cũi, dù ở một bên bờ sông từ xa xưa đã có một cái
bến cá đầy rác rến và nhầy nhụa bùn sình, quanh năm lai láng nước thải tanh
hôi… Sát bên cái bến cá lại có một cây cầu gỗ cũ kỹ, xấu xí bởi được chắp vá bởi
đủ loại gỗ mới, cũ hay phế thải. Ngày ngày, bọn tôi cứ quần xà lỏn, đa số ở trần
và đi chân không ra cầu chơi, nghịch đủ trò.
Tôi đã thường cùng những đứa trẻ khác mang theo cần câu, mà thú vị nhất là câu
cá bóng cát. Đặc biệt khi muốn bắt loại cá này, bọn tôi phải chỏng khu hay nằm
mẹp trên mặt sàn cầu, cắm cúi nhìn xuống gầm cầu, đúng hơn là những cây trụ cầu
bằng gỗ chìm dưới nước, để cố tìm cho ra những con cá bóng cát bám ở thân trụ.
Loài cá có thân mình trắng trong này cứ như dán mình vào cây trụ theo chiều đứng,
đầu hướng lên mặt nước, nằm im lìm như ngủ mê, nhưng khi bọn trẻ rê cái lưỡi
câu với mồi trùng hay tôm chết đến gần là bập một cái, chúng há họng táp gọn, cứ
giật lên là dính, rất hiếm khi sẩy. Bữa nào câu cá được kha khá, bọn tôi làm
thêm một trò nữa là lội ra một cái doi cát nhỏ, lau sậy mọc um tùm ở giữa một
khúc sông phía dưới Phường Cũi một chút để tìm hái đọt ráng, một loại rau mềm mại,
hơi nhớt chút xíu nhưng ngọt ngon cực kỳ. Cá bóng cát đem về cho mấy chị kho
tiêu xong xuôi rồi đem đọt ráng luộc ra chấm thì nồi cơm lớn cỡ nào cũng hết sạch
bon!
Cũng tại cây cầu gỗ, sau khi tắm sông đả đời, bọn tôi hay đứng hay ngồi thòng
chân xuống nước, căng mắt nhìn xuống dòng nước chảy để cố gắng phát hiện một
loài cua, còng nhỏ bằng hai đầu ngón tay – tên địa phương là con rạm – trôi dật
dờ gần mặt nước, nhiều nhất là vào lúc nước lớn. Rồi những đứa bơi, lặn giỏi nhảy
ùm xuống, lặn một hơi là tóm được mấy chú rạm ham rong chơi theo dòng chảy này.
Rạm bắt được nhiều thì về nhà đưa các chị ram với chút mỡ để thêm món mặn ăn cơm,
còn được ít quá thì quăng trả lại dòng sông. Bọn nhóc chúng tôi đã chơi trò bắt
rạm với đủ thứ cảm xúc háo hức, thích thú, thất vọng, hờn giận … Chỉ vậy thôi
nhưng sau này, khi hơi lớn là ngồi lớp đệ tam C, chơi thi văn đoàn, tôi đã nhớ
lại những cảm xúc hồi đi bắt rạm ngày ấy, cộng thêm nỗi thất vọng bãng lãng
trong mối tình đơn phương buông thả về phía một cô bạn học, tẩn mẩn viết thành
một bài thật ngắn, kiểu nửa tùy bút nửa nhật ký mà tôi nghĩ mãi mới ra cái tựa
“Như Rạm Trôi Sông”.
3.
Song song với con sông Phường Cũi ở miền quê Nha Trang chỉ chiếm cứ những mùa
nghỉ hè các năm đầu trung học của tôi xưa kia, sông cầu Bông ở Sài Gòn, quê
hương thứ nhì của tôi, mới là dòng sông ghi dấu cả một thời niên thiếu của tôi.
Những năm đầu thập niên 60, cậu nhỏ dân nhập cư đất Sài Gòn là tôi chỉ nghe nói
cầu Bông bắt qua rạch Thị Nghè ở vùng hạ lưu đổ ra sông Sài Gòn, chứ chưa nghe
nói con rạch quanh co này thuộc hệ thống “kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè” như sau
năm 1975. Thời đó, do nhà ở đường Trần Quang Khải quận 1, coi như ở giữa khu
Đakao -Tân Định, nên tôi cùng bọn trẻ hàng xóm mò xuống chơi ở cầu Bông (thuộc
Đakao) là khá gần. Bọn tôi thường vô cái xóm nhỏ bên sông, có ngõ hẹp dẫn xuống
gẩm cầu để lội bùn tìm bắt những con cua càng đỏ hay rượt những con cá thòi lòi.
Nghịch phá vậy thôi chứ cả bọn không hề có ý săn bắt hai loài này để đem về ăn.
Rồi trước tình hình tốt đẹp của nước sông cầu Bông thời 1960-70 là còn sạch,
còn rõ rệt có màu trong xanh, chứ chưa hề đen thẳm và hôi hám đến mức bị kết luận
là ô nhiễm nặng như vài năm sau 1975 (chỉ đỡ đen, đỡ hôi hơn từ năm 2012 khi khởi
động trạm bơm thu gom nước thải ở lưu vực kênh Nhiêu Lộc-Thị Nghè, sau đó đổ ra
sông Sài Gòn), nên dân Đa Kao – Tân Định, con nít người lớn gì thời đó nếu
thích cũng đều có thể tắm sông thoải mái, tắm giờ giấc nào cũng được mà không hề
sợ ngứa da hay sinh ghẻ. Có điều là do sông cầu Bông, Sài Gòn sâu hơn sông Phường
Cũi, Nha Trang, mấy đứa biết bơi vừa đủ như tôi ít dám ra giữa dòng, lại càng
không dám a dua mấy đứa bơi lặn giỏi, tình cờ thấy ghe máy chở mía chạy ngang cầu
là nhảy ùm xuống nước bơi ra thật lẹ, lặn một đỗi đến sát be ghe là trồi lên,
êm ái rút vài cây mía rổi bơi sãi vô bờ.
Sau biến cố tháng 4-75, giống như bao người dân Sài Gòn khác, tôi – gã thiếu úy
học tập cải tạo về – không thể tránh khỏi đủ loại khó khăn, thăng trầm trong cuộc
sống. Một dạo rất bất đắc chí, tôi hay nhậu ở nhà một người bạn cũng SQ học cải
tạo về, kiểu nhà nửa nhà sản nửa nhà gỗ dựng ở sát mé nước sông cầu Bông. Trong
đám bạn nhậu thường có một anh đã hơn 70 tuổi, tên Robert Hạnh nhưng mọi người
cứ gọi tắt “anh Be”, cựu SQ cảnh sát áo trắng, nguyên là một công tử con nhà
giàu cố cựu lâu đời ở vùng Đa Kao. Anh Be kể rất rành rẽ, thú vị về lịch sử
hình thành và phát triển của vùng Đất Hộ, một tên khác của Đa Kao. Riêng về rạch
Thị Nghè chảy bên dưới cầu Bông, anh xác nhận là ngày xưa nước con rạch rất sạch,
trong veo và có nhiều cá – tất cả là nhờ nước thủy triều ra vào từ sông Sài Gòn
rất thông thoáng và dân còn thưa, có xả rác và nước thải xuống rạch thì cũng
còn ít, không đáng kể.
Anh Be kể là hồi còn thanh niên, anh đã cùng vài thằng bạn rất chịu chơi, cùng
“diện” quần tắm vải rằn ri, ra đứng trên cầu rồi bắt chước Johnny Weissmuller,
tài tử Mỹ điển trai đã thủ vai chính trong các phim về Tarzan ban đầu (thời
1932), hú một tiếng dài rồi lao mình xuống sông, bơi xuôi về cầu Thị Nghè, hướng
ra sông Saigon… Tôi đã mê mẩn nghe anh Be kể truyện. Một đàn anh, một người Sài
Gòn cố cựu đã cho thấy cái sông cầu Bông hiền hòa, rồi kênh nước đen đầy tai tiếng
Nhiêu Lộc – Thị Nghè xem vậy mà cũng đã từng toát lên những nét hoành tráng, kỳ
vĩ, hình ảnh của chuyển động thủy triều cùng sông lớn, một nét vẽ thêm rất có
duyên cho bản địa đồ Sài Gòn.
4.
Người xưa từng thở dài khi nhận ra thời gian luôn qua nhanh, chẳng khác “bóng
ngựa non chạy lướt qua cửa sổ”. Thấm thoát đã gần 70 năm trôi qua kể từ lúc tôi
được ba mẹ bồng bế, rời bỏ đất quê Nha Trang lánh vào đất Sài Gòn làm dân nhập
cư. Vừa qua, vào một lúc an thân tĩnh tại ở đất Sài Gòn đầy bao dung này mà
hoài niệm quá khứ, tôi đã bắt gặp câu “Dòng sông thời gian trôi chập chờn trong
tâm thức kẻ xa quê là không có tuổi” (3) thật ý nhị của Bùi Diệp. Dòng tản văn
thật ngắn này cho thấy nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc về chiều kích thời gian/thời
tính “không có tuổi” của những con sông ngọt dịu thương yêu, chất ngất kỷ niệm
một khi chúng có mặt trong tuổi nhỏ, thời niên thiếu của mỗi đời người chúng
ta.
Phạm Nga
(mùa mưa 2018)
(mùa mưa 2018)
(1) Trang 23 tản văn “Về Ngang Quán Không”, Bùi Diệp, NXB
Văn Hóa Văn Nghệ 2017.
(2) Trang 38 sách đã dẫn.
( 3) Trang 37 sách đã dẫn.
(2) Trang 38 sách đã dẫn.
( 3) Trang 37 sách đã dẫn.