Tựa đề của tập truyện cho phép tôi nghĩ rằng đây là chuyện
tình của những người yêu nhau, mất nhau và tìm lại được nhau. Thế nhưng khi đọc
xong tác phẩm tôi mới nhận thấy rằng trong Tìm Vết Chân Xưa chỉ có truyện Cuộc
Tình Xót Xa và Mơ Chiều là viết về tình yêu đôi lứa; còn những truyện khác cũng
viết về tình yêu, nhưng là tình yêu quê hương, tình yêu gia đình. Tất cả khối
tình yêu này được tác giả lồng trong những sinh hoạt sống động của xã hội và
trong nhiều cảnh sắc thân thương nơi quê nhà. Theo nhận xét của tôi, ngoài những
đoạn tả cảnh rất tuyệt vời, tác giả đã đặt vào Tìm Vết Chân Xưa một tấm lòng rất
nhân hậu. Vì tấm lòng của tác giả đã như thế cho nên nhân vật của tác giả thường
là những người có tư tưởng cao, trái tim rộng mở; ngoại trừ Hoan, nhân vật nam
trong chuyện Vết Ðau Xưa.
Từ lâu, tôi tự đặt một nguyên tắc cho riêng tôi: Khi đọc một
tác phẩm thì không nên nhập nhằn giữa tác giả và nhân vật. Thế mà mỗi khi đọc
văn của Ðiệp Mỹ Linh tôi không hiểu tại sao tôi không thể tách rời được tác giả
và nhân vật. Ðặc biệt khi đọc Tìm Vết Chân Xưa thì ý niệm lẫn lộn giữa tác giả
và nhân vật càng hiện rõ trong tôi. Vì thế, tôi nghĩ cô bé trong hai truyện Cuộc
Tình Xót Xa và Qua Làng Sơn Tịnh chính là tác giả Ðiệp Mỹ Linh lúc Bà còn bé.
Không hiểu sự ức đoán của tôi đúng được bao nhiêu phần trăm,
nhưng tôi nghĩ tác giả đã chinh phục người đọc bằng sự phối hợp rất chặt chẽ và
khéo léo giữa hiện thực, hư cấu và cảm tính khiến câu chuyện trở nên sống động
và nhân vật rất gần gủi trong cuộc sống thường ngày. Như trong đoạn văn sau
đây, trích từ Cuộc Tình Xa, trang 4, Ðiệp Mỹ Linh viết:
... Ðón nhận mẫu kẹo kéo từ tay người cậu xong, đứa bé gái lại
vòi vĩnh: “Cậu cho em xuống ngồi chỗ bậc ấp coi Ba Má em đi xe đạp, nhen, cậu.”
Cậu bé giả vờ nghiêm nét mặt, mắt lườm lườm để thị oai với cháu: “Mày cứ lộn
xộn, nhõng nhẽo không hà. Chiều nào cũng bắt tao dẫn đi mua kẹo kéo, rồi lại
đòi tới bậc cấp ngồi, để tối về mày bị sổ mũi cho tao bị la, hả?” Thấy đứa
bé rơm rớm nước mắt, môi trề ra như sắp khóc, cậu bé vừa mở cửa ngồi vào băng
sau vừa cười: “Cho tao cắn một miếng kẹo kéo thì tao cho đi.” Ðứa bé giấu
mẫu kẹo sau lưng, lắc đầu. Cậu bé năn nỉ: “Cho cậu cắn một tý thôi, rồi cậu
cho đi.” Ðứa bé gái đưa mẫu kẹo ra phía trước, ngắm nghía rồi bặm môi, lắc
đầu. Người cậu che mặt, giả vờ khóc. Ðứa bé nhìn cậu bằng đôi mắt buồn hiu, rồi
đưa mẫu kẹo cho cậu: “Nè, em cho cậu cắn miếng đó, mà cậu cắn chút xíu thôi,
nhen...”
Qua đoạn văn vừa trích dẫn, người đọc thường nói nôm na là
Ðiệp Mỹ Linh viết như thật. Vì độc giả có cảm tưởng câu chuyện và đối thoại như
thật cho nên nhiều người bạn của tôi đi đến kết luận là tính chất tự truyện
trong tác phẩm của Ðiệp Mỹ Linh rất đậm đặc. Dù không hoàn toàn đồng ý với nhận
xét của bạn hữu, tôi cũng không thể biện minh cho đoạn mở đầu của truyện Cuộc
Tình Xót Xa:
“... Trong ánh nắng mong manh của một buổi chiều, Bảo-Trân
và Phong đều cảm thấy buồn buồn nên không nói năng chi nữa, chỉ đi chầm chậm
bên nhau, theo triền dốc, về hướng bờ Hồ-Xuân-Hương. Mặt hồ tĩnh lặng. Nhưng từ
tâm trạng bất an của lòng mình, Bảo-Trân nghĩ rằng sự tĩnh lặng đó chỉ để che dấu
những đột biến âm thầm...“ (Trang 3).
Nếu nhân vật chính không phải là tác giả thì làm thế nào tác
giả có thể cảm nhận được tâm trạng của Bảo Trân một cách rất thật, rất chính
xác, rất thích hợp để so sánh với sự tĩnh lặng của mặt hồ? Theo tôi, đây là một
đoạn tả cảnh ngụ tình rất tuyệt vời.
Không phải chỉ một đoạn này mới mang tính chất tự truyện mà
rải rác trong những tác phẩm trước đây của Ðiệp Mỹ Linh tôi cũng đã bắt gặp vài
truyện mang tích chất tự truyện. Tuy vậy, tôi vẫn không nghĩ những sáng tác của
Ðiệp Mỹ Linh là tự truyện; vì, Ðiệp Mỹ Linh viết rất nhiều về Lính trong khi bà
không có số quân. Ðiệp Mỹ Linh làm rung động tâm hồn người đọc về những mẫu
chuyện Phục Quốc trong khi bà không hề liên hệ đến bất cứ một tổ chức chính trị
nào. Ðiệp Mỹ Linh viết về thân phận tù đày và H.O. trong khi bà định cư tại Hoa
Kỳ từ năm 1975.
Không phải là tự truyện mà ngòi bút của Ðiệp Mỹ Linh viết
như thật thì đó là sự thành công không phải bất cứ ngòi bút nào cũng đạt được.
Và, đúng như nhà văn Earnest Hamingway đã nói: “All good books are alike in
that they are truer than if they really happened and after you are finished
reading one you will feel that all that happened to you, and afterwards it all
belongs to you.”
Trên văn đàn, có những nhà văn thu hút nhiều độc giả bình
dân. Có những nhà văn mà đa phần độc giả là giới trí thức, có trình độ văn hóa
cao. Cũng có những nhà văn mà độc giả gồm đủ mọi thành phần xã hội, mọi lằn
ranh kiến thức. Ðiệp Mỹ Linh thuộc vào những nhà văn này. Ðiệp Mỹ Linh không đi
tìm những gì cao cả, xa rời thực tế. Ðiệp Mỹ Linh chỉ “vẽ” ra những bức tranh
có thật của xã hội bằng ngòi bút đầy tự tin và bằng tâm hồn trong sáng, đầy
thương yêu.
Tư tưởng của Ðiệp Mỹ Linh trong những tác phẩm đã xuất bản
chúng ta có thể chia ra bốn phần, điển hình cho bốn giai đoạn khác nhau trên bước
đường lưu lạc:
Giai đoạn I.- Vọng cố hương. Tình cảm dành cho đoàn
quân bại trận. Gương oanh liệt của những người trai Phục Quốc. Hoàn cảnh khốn
khổ của những ngày mới hội nhập. Cuộc sống bi thương dưới sự cai trị của Việt Cộng.(trong
tập truyện Một Ðoạn Ðường)
Giai đoạn II.- Xã hội Việt-Nam “thu hẹp” đã thành
hình. Trong xã hội thu hẹp này Ðiệp Mỹ Linh, không những đã bắt gặp những thảm
cảnh gia đình do tuổi trẻ bồng bột, dễ bị đầu độc (trong tập truyện Bước Chân
Non) mà Bà còn thấy được nhiều bông hoa rực rỡ từ thế hệ di dân thứ hai, (trong
tập truyện Ðưa Tiễn) và những khó khăn cũng như những va chạm rất dữ dội giữa
những người ra đi năm 1975 và những người ra đi theo diện đoàn tụ O.D.P. (Truyện
dài Cuồng Lưu)
Giai đoạn III.- Là giai đoạn về những người sang Mỹ
theo diện H.O. và những sum vầy cay đắng, đầy nước mắt. (trong tập truyện Tưởng
Như Trở Về).
Giai đoạn IV.- Tác phẩm Tìm Vết Chân Xưa thuộc vào
giai đoạn này; giai đoạn mà những người tị nạn trở về chốn xưa. Ðiệp Mỹ Linh
“đưa” người đọc trở về quê cũ không phải chỉ để “tìm lại chính mình” (chữ
của Ðiệp-Mỹ-Linh) mà, theo dòng suy tư của tác giả, chúng ta được dẫn dắt vào mỗi
câu chuyện để buồn vui theo từng biến chuyển của hoàn cảnh xã hội và của dòng lịch
sử Việt Nam cận đại. Ngoài ra ý tưởng phản kháng của Ðiệp Mỹ Linh về lề lối
giáo dục xưa, về những quan niệm xưa, về cung cách “trọng nam khinh nữ” của những
bậc cha mẹ cũng được Bà bộc lộ rất rõ nét trong giai đoạn này.
Trong những tác phẩm trước, hai hình tượng được tác giả tô đậm
nét nhất là người Lính Việt Nam Cộng Hòa và phụ nữ. Hình tượng thứ ba cũng được
tác giả đề cập đến với rất nhiều cảm mến, đó là y sĩ Quân Y. Riêng trong Tìm Vết
Chân Xưa, bóng dáng người y sĩ Quân Y được tác giả đưa vào truyện bằng những
dòng văn hết sức xúc tích, lãng mạn, gợi cảm và thiết tha. Cũng bằng những dòng
văn đó, ngòi bút của Ðiệp Mỹ Linh đã tỉ mỉ gợi lại kỷ niệm xưa.
Trong khi Ugo Betti cho rằng “Memories are like stones,
time and distance crack them like acid” thì, dưới ngòi bút của Ðiệp Mỹ
Linh, kỷ niệm không những vẫn nguyên vẹn, không bị thời gian và acid xoi mòn,
mà lại còn trở nên đậm đà và sống động:
“... Sự thiếu vắng hai hàng cây muồn khiến Bảo Trân tiếc
ngẩn tiếc ngơ như tiếc nỗi rộn ràng của đứa bé gái trên chuyến xe lửa trở về
quê Nội sau bao nhiêu năm dài theo gia đình tản cư! Ngày đó, xe lửa vừa qua khỏi
vườn dừa ở Chợ Mới, ông Dư đã chỉ cho Bảo Trân khoảng không gian êm ả bên trái
con tàu: ‘Tới Nhatrang rồi đó, con. Ðây là Mã Vòng. Qua khỏi Mã Vòng là
nhà ga.’ Bà Dư tiếp lời chồng: ‘Hồi con mới biết đi, Ba má đem
con từ Dalat về thăm Nội. Khi xe lửa vừa vào ga, máy bay Nhật ào đến thả bom.
Nhà ga sập, không biết bao nhiêu là người chết!’ Giọng ông bà Dư đượm
chút bùi ngùi, nhưng vì còn nhỏ, Bảo Trân không nhận biết được cho nên lòng bé
chỉ thấy xôn xao vui thích khi nhìn những đóa hoa vàng nở rộ trên hai hàng cây
muồn khẳng khiu. Phải hơn bốn mươi năm sau, nhân chuyến từ bên kia địa cầu trở
về quê Nội, Bảo Trân mới hiểu được tại sao ngày đó, trên chuyến xe lửa từ Ninh
Hòa vô Nha Trang và suốt những ngày sống trong trại tạm cư ở Xóm Mới, lúc nào
gương mặt ông bà Dư cũng buồn buồn và giọng nói thường đượm nhiều xót xa...”
( Tìm Vết Chân Xưa, trang 58)
Chỉ qua một đoạn văn ngắn này tác giả đã đưa người đọc lùi lại
dòng Việt sử để người đọc nhận ra được sự điêu linh, khốn khó của Quê Hương
cũng như thân phận và tâm trạng của những người cùng thế hệ với Bà.
Kỷ niệm của Ðiệp Mỹ Linh (tôi mạo muội nghĩ như thế, vì tôi
cứ bị nhập nhằn giữa nhân vật và tác giả) sau khi hồi cư trở về “vùng bị chiếm”
thì bùi ngùi xót xa đến như thế; còn kỷ niệm của Ðiệp Mỹ Linh khi sống trong
“vùng giải phong” thì như thế nào? Xin mời độc giả đọc tiếp đoạn sau đây:
“... Trên sân khấu, ánh sáng hơi nhạt, chỉ đủ cho khán giả
thấy đôi lưỡng quyền nhô cao, hai vùng má trũng sâu cùng đôi mắt lạc thần của
các diễn viên đang run rẩy lê bước. Văng vẳng sau hậu trường, ban đàn giây hòa
tấu bản Ðói Lạnh. Vở kịch kéo dài bằng những lời đối thoại gay gắt, lên
án sự tàn bạo, dã man của chế độ Phát-Xít.
Ðến màn cuối, giữa khi tinh thần khán giả hoàn toàn bị
khung cảnh và âm thanh chi phối, Bảo Trân, đã được hóa trang thành một bé gái
đói hom hem và rách tả tơi, gượng đứng lên giữa đoàn người đi xin ăn, cất giọng
run run như sắp khóc, tay ôm bụng, gương mặt nhăn nhó như cơn đói đang hành hạ
rồi gào lên nho nhỏ: ‘... Vì đâu, từ ba bốn hôm nay không ăn? Nhà không có, áo
quần nay không còn ... Trời ơi! Ðói quá đi thôi! Rét quá đi thôi!....’ Tám tiếng
sau cùng được một tập hợp âm thanh nhiều bè hát theo từ sau hậu trường, nghe rền
rền như vang lên từ cõi chết!
Một tù binh Pháp xúc động quá, sẵn đang cầm mẫu bánh mì
nguội trong tay, anh ta thảy lên sâu khấu. Bảo Trân đột ngột ngưng hát, lượm ngay
miếng bánh mì, ăn ngấu nghiến như một đứa bé thật sự sắp chết đói!...” (Qua
Làng Sơn-Tịnh, trang 80).
Qua đoạn văn này tôi nhận thấy bút pháp của Ðiệp Mỹ Linh tạo
được sự bất ngờ rất thú vị, phảng phất chút kịch tính, nhưng không có dấu vết của
sự cường điệu. Ðiệp Mỹ Linh không cần lên án ai cả, nhưng hành động bất ngờ của
diễn viên tí hon trong đoạn này đã nói lên tất cả thảm cảnh của một xã hội lầm
than trong “vùng giải phóng”!
Khi diễn tả về sự ấm no hạnh phúc dưới sự cai trị của nhà nước
xã hội chủ nghĩa, Ðiệp Mỹ Linh viết:
“... Xe chạy dọc theo bờ đê mà, ở những đoạn bờ đê thấp
hoặc bị vỡ, Bảo Trân nhìn vào, không thấy nước trong lòng sông, chỉ thấy cây bắp
và vài loại rau cải. Bảo Trân khoèo vai Ninh, hướng dẫn viên du lịch, hỏi nhỏ:
- Ðây là sông gì, Ninh?
- Dạ, đây là sông Hồng.
Thốt nhiên Bảo Trân cảm thấy xúc động một cách nhẹ nhàng.
Thì ra dòng sông đã gieo cảm hứng cho không biết bao nhiêu nghệ sĩ di cư là
dòng sông này! Bảo Trân chỉ ra bờ đê:
- Tại sao người ta lại trồng hoa màu trong lòng sông, nhỡ
nước lên thì sao?
- Dạ, ở đây đất hiếm và dân nghèo lắm. Họ trồng theo mùa.
Họ phải tính làm sao khi vừa thu hoặch hoa màu xong thì đúng vào mùa nước lớn.
- Nếu vậy, sang năm, đến khi nước ròng, làm sao họ biết
được khu vực nào thuộc về họ?
- Dạ, họ cắm sào, đánh dấu cả đấy.
Bảo Trân im lặng, cảm thương cho cảnh nghèo của những người
đã một thời được tuyên truyền để tin tưởng rằng sau khi giải phóng được miền
Nam, cuộc sống sẽ khá hơn, vì xã hội không còn giai cấp nữa!...” (Dưới Bóng
Cổ Thụ, trang 110).
Chỉ vài đoạn trích dẫn ngắn, độc giả cũng có thể đồng ý với
tôi rằng nhà văn chỉ trình bày sự việc; còn cảm nhận hoặc phê phán, Ðiệp Mỹ
Linh dành trọn quyền cho độc giả.
Chỉ bảy truyện ngắn, với những diễn tiến lớp lang, độc giả
có thể nhìn xuyên suốt những biến chuyển xã hội trên quê hương Việt Nam qua bao
thời kỳ đao binh. Tác giả viết về những giai đoạn đó bằng một tấm lòng rất nhạy
cảm, rất bao dung, chan chứa tình người. Bối cảnh làm nền cho những giai đoạn
đó lại là những đoạn tả cảnh hết sức linh động, khiến người đọc cảm thấy thương
nhớ quê nhà và chỉ muốn trở về. Riêng truyện cuối, Vết Ðau Xưa, tác giả đã bộc
lộ rõ rệt tư tưởng phản kháng của Bà về những tập tục khắc nghiệt mà xã hội Việt
Nam đã phủ chụp lên thân phận người phụ nữ Việt Nam. Và đoạn kết của tập truyện
cũng rất khác lạ, vì tác giả lấy đoạn kết của truyện đầu tiên, Cuộc Tình Xót
Xa, làm đoạn kết cho toàn tập truyện. Người đọc yêu thích văn của Ðiệp Mỹ Linh
vì sự đãi lọc chi tiết thâm thúy, câu văn trong sáng, ý tưởng sâu sắc, đậm đà.
Khi viết về một mối tình cao thượng tác giả biết dừng lại đúng lúc để làm cho
người đọc cảm thấy còn thèm đọc tiếp.
Ðọc truyện của Ðiệp Mỹ Linh, người đọc cứ miên man, chìm đắm
với suy tư của nhân vật rồi bị tác gỉa dẫn dắt vào vùng kỷ niệm lúc nào không
hay.
Sở dĩ độc giả khó nhận biết những khoảng chuyển tiếp giữa thực
tại và quá khứ, giữa hư cấu và hiện thực là vì tác giả đã dùng thuật ngữ để
chuyển mạch một cách rất tài tình. Ðặc điểm này của Ðiệp Mỹ Linh được Ðiệp Mỹ
Linh khai thác trọn vẹn khi thực hiện tác phẩm Tìm Vết Chân Xưa. Thật vậy, sau
khi đọc xong bảy truyện ngắn, gấp sách lại tôi mới nhận ra đây là một chuyện
dài biến thể.
Tôi nhận xét như thế không phải vì nhân vật nữ chính, tên Bảo
Trân, xuất hiện trong tất cả bảy truyện mà là vì biến chuyển của những mẫu chuyện
được dàn trải gần như theo thứ tự thời gian, không gian và tình cảm của nhân vật.
Kết luận của những tác phẩm của Ðiệp Mỹ Linh, đặc biệt nhất
là trong Tìm Vết Chân Xưa, thường được bỏ lửng, để tùy độc giả tưởng tượng thêm
hoặc là để độc giả cảm thấy tiên tiếc, như chưa muốn câu chuyện dừng lại ở đó.
Tìm Vết Chân Xưa là một cuốn sách in rất đẹp, rất trang nhã
và đây là một truyện dài biến thể, một thể loại mới mà Ðiệp Mỹ Linh đang dò dẫm
(chữ của Ðiệp Mỹ Linh, đăng trên Ngày Nay Houston) chứ không phải truyện dài được
chia ra nhiều chương và nhiều hồi.
Ngoài ra Ðiệp Mỹ Linh còn lồng vào câu chuyện những dòng thơ
hoặc những đoạn nhạc rất thích hợp và rất tự nhiên; tự nhiên như khi ta ăn một
bát phở, muốn cho ngon hơn, ta cho vào tý tiêu, tí chanh vậy. Kỹ thuật trích dẫn
những đoạn nhạc còn cho thấy Ðiệp Mỹ Linh là một người có trình độ nhạc lý cao.
Để kết luận bài viết này, tôi xin cảm ơn nhà văn Ðiệp Mỹ
Linh và tôi cũng xin được giới thiệu đến quý độc giả tác phẩm Tìm Vết Chân Xưa
với tất cả sự trang trọng và sự thành thật của một người cầm bút.
Phụng Hồng