Tôi biết về Phật Giáo không nhiều, vơ được quyển sách nào
thì đọc cái ấy. Cũng có điều hiểu được, học được, làm được, nhưng nhiều điều buộc
phải “bó tay”. Ví dụ như mấy lời này: “Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động!
Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì – dù chỉ một lời. Hãy
yên lặng và bất động hoàn toàn. Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm
cho mình giận dữ” (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương - Tỳ kheo
VISUDDHÀCÀRAZ). Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn
đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả hê? Đạt được đạo mới khó
làm sao...
1.
Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng
tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống
nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa
rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn. Cha tôi tháo cái khung tre chắn dưới sàn ghe,
bầy vịt lúc nhúc chen ra, cuống quýt, nháo nhào quẫy ngụp xuống mặt nước váng phèn.
Một lớp phèn mới, vàng sẫm quánh lại trên bộ lông của những con vịt đói, nhớp
nháp bám trên vai Điền khi nó trầm mình bơi đi cặm cọc, giăng lưới rào bầy vịt
lại. Tôi bưng cái cà ràng lên bờ, nhóm củi.
Rồi ngọn lửa hoi hót thở dưới nồi cơm đã lên tim, người đàn
bà vẫn còn nằm trên ghe. Ngay cả ý định ngồi dậy cũng xao xác tan mau dưới những
tiếng rên dài. Môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo
mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người
ta cấu nhéo tím ngắt.
Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu. Người ta đã
lòn tay, ngoay chúng để kéo chị lê lết hết một quãng đường xóm, trước khi dừng
chân một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị trên cái nền
vương vãi trấu. Vai nữ chính, một người đàn bà xốc xếch đã lạc giọng, đôi lúc lả
đi vì ghen tuông và kiệt sức. Nhưng đám đông rạo rực chung quanh đã vực tinh thần
chị ta dậy, họ dùng chân đá vói vào cái thân xác tả tơi kia bằng vẻ hằn học, hả
hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa
giáp hạt. Cuộc vui hẳn sẽ dài, nếu như không có một ý tưởng mới nảy ra trong
cơn phấn khích. Họ dùng dao phay chạt mái tóc dày kia, dục dặc, hì hục như phạt
một nắm cỏ cứng và khô. Khi đuôi tóc dứt lìa, được tự do, chị vùng dậy, lao
nhanh xuống ghe chúng tôi như một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha,
làm đổ những bao trấu cha vừa mới xếp.
Đám người ngơ ngác mấy giây để chấp nhận việc con mồi bỏ chạy.
Tôi mất mấy giây để háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên, tôi lồm cồm
xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống thục mạng ra giữa
sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên
cuồng. Rồi tiếng chửi rủa chói lói chìm đi, tiếng bầy vịt tao tác kêu dưới sạp
chìm đi, trong tôi chỉ có âm thanh của chiếc máy Koler4 nổ khan, rung bần bật
dưới tay Điền, khạc ra những đám khói khét lẹt, đen ngòm. Khói trôi về phía sau
chúng tôi, mờ nhoè những bóng người đang tuyệt vọng ngó theo, bàn tay nào đó cầm
nắm tóc của chị vẫy lên phơ phất phơ phất …
Cha tôi không đóng vai trò gì trong cuộc tháo chạy ấy, ông
im lặng, khi đã đi khá xa, cha ra đằng mũi cầm sào. Tôi bò vào trong ghe, lấy
áo đắp lên người chị, sao cho che được đôi vú rách bươm và khoảng đùi rướm máu.
Chị cười mếu máo, nói cảm ơn bằng mắt và thiếp đi.
Suốt một quãng đường, chị không hề thay đổi thế nằm, im lìm,
lạnh ngắt như người chết. Trong ghe chỉ trôi mênh mang những tiếng rên khi dài,
khi ngắn, khi thiu thỉu buồn xo, lúc nghe như tiếng nấc nghẹn ngào…
Nhờ vậy mà chúng tôi biết chị còn sống, để đi với chúng tôi
gần hết con sông Bìm Bịp, đến cánh đồng hoang vắng này. Điền hơi lo lắng khi
nghe chị vẫn còn rên rỉ, nghĩ là chị đã đói, nó hối tôi nấu cơm mau. Nó thấy tiếc
vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, “tui nuốt còn không vô, nói chi…”
Nhưng chiều hôm đó và cả ngày sau, chị không ăn. Chị từ chối
cả uống nước, đợi đôi môi khô đã bắt đầu nứt ra, chị mới chịu hớp một vài ngụm
ít ỏi, dường như chỉ đủ ướt môi. Đói và khát, nhưng chị còn sợ đau hơn. Người
ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mìnhcủa chị…
Tôi nói lại với cha và Điền trong bữa cơm. Tôi nghe hai người
lặng đi, tiếng đũa tre khua vào miệng chén ngưng bặt. Điền ngó tôi và tôi thì đọc
được sự ghê sợ, kinh tởm cồn lên trong mắt cha. Điền chan nước vào chén, lua vội
vàng rồi men theo con đường đất dọc mé kinh, nó đi vào trong xóm. Tôi dặn vói
theo, ghé tiệm mua giùm ngàn rưỡi đường cát.
Chắc gió đã bạt mất lời tôi, khi quay về, Điền không mang
theo gì, nó lẳng lặng xòe tay trước mặt tôi, tay nó dính một lớp gì đó, bóng mượt,
trong suốt, và đang khô quánh lại, khiến những ngón tay đơ ra như đá. Điền bảo,
“Keo dán sắt…”. Dường như những người sản xuất ra loại keo này cũng không ngờ
nó nhiều công dụng đến thế. Hai chị em tôi tỉ mẩn lột lớp keo ra, mảng da non
trên bàn tay nó bỏng đỏ nhừ, tươm máu. Chúng tôi cùng ngó về chỗ khoang ghe,
nghe tiếng thở thênh thang cùng gió…
2.
Cánh đồng không có tên. Nhưng với tôi và Điền, chẳng có nơi
nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng
tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ
tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… Và mai này khi trôi dạt đến một nơi nào khác,
nhắc đến cánh đồng này với cái tên của chị, chắc chúng tôi sẽ xốn xang.
Sáng sớm ngày thứ ba, chị ngồi dậy được, ngó quanh, chị hỏi,
“Trời đất ơi, chỗ nào mà vắng tanh vậy nè”. Làng xóm xa xa đằng phía những rặng
dừa xanh thẩm. Đồng đất trống trơn, trên đôi bờ kinh chơ vơ những cây gòn. Hai
đứa nhỏ đầu mướt sương đang hí húi trộn thức ăn cho vịt, nhìn chị ngạc nhiên đến
ngây ngất. Giọng nói chị không bị thương tích gì hết, trong vắt và ngọt
ngào.
Chị hỏi “Tắm ở đâu, mấy cưng ?”. Tôi chỉ xuống kinh. Chị ngó
những váng phèn, ngao ngán. Điền nói, đằng kia có một cái ao.
Đó là một hố bom cũ, bình bát mọc quanh, rau muống chằng chịt
phủ kín mặt nước, cọng rau ốm nhằng, đỏ au. Chỗ này, hôm qua, Điền đã câu được
những con cá thát lát ú mềm. Chị trầm mình dưới đó rất lâu, chẳng kỳ cọ gì, chỉ
để nước lạnh chườm dịu lại những chỗ đau. Lúc chị lên bờ, tôi thấy máu lợn cợn
theo những giọt nước nhỏ xuống giữa hai đùi, chắc chị đã làm gì với chỗ keo dán
ác nghiệt ấy. Rồi cũng lâu lắc, cũng cà nhắc từng bước ngắn như lúc đi, chị với
tôi quay lại bờ kinh. Điền hí hửng khi thấy chị chịu mặc chiếc áo sơ-mi thẫm
phèn và cái quần cụt quăn queo của nó.
Chỉ có cha lầm lì dọn cỏ quanh chòi. Chỉ có cha là hờ hững với
thành quả của hai chị em tôi. Không chấp thái độ lạt lẽo của cha, chị ngó về
phía người đàn ông đang vồng lưng trong nắng sớm, chếnh choáng: “Ba mấy cưng đẹp
trai dễ sợ…”.
Vì lẽ đó ? Có phải vì cha mà chị ở lại với chúng tôi, trên một
cánh đồng vắng ngắt. Những vết thương đã lành rất mau. Chị cười, bị đánh hoài
riết cũng quen. Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười, “Làm đĩ”. Rồi có lẽ chị
áy náy vì quá sỗ sàng với chúng tôi, chị vò đầu Điền “chắc mấy cưng không biết
đâu…”.
Điền nhìn tôi cười. Chúng tôi đã gặp nhiều, rất nhiều người
phụ nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của
những thợ gặt, những người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm
ra vẻ trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kỹ phát ứa nước mắt.
Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn man… lên
trời, làm nhiều người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt
lòng lại. Tối nào mua rượu cho cha, chúng tôi cũng đi ngang qua những đôi người.
Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm
nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình chứ không trơ ra ngượng nghịu, cam chịu
như những người phụ nữ quê. Sáng sau, họ xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ tiền
công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần quật của đám đàn ông.
Chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành
mới chạy xuống quê, cất cái quán nhỏ, giả đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất
là làm nghề. Ở đó đàn ông dễ tính và thiệt thà. Chị sống nhờ những món tiền họ
cắm câu đêm đêm, bằng tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng chuối chín. Cũng có
lúc thu hoạch bất ngờ, khi chị mồi chài một người đàn ông vào trò chơi giường
chiếu, suốt hai ngày đêm, và chị được một triệu hai. Đó là vốn vay xoá đói giảm
nghèo, khi về tới nhà, với tám trăm ngàn còn lại trong túi, hẳn người đàn ông ấy
não nề biết bao nhiêu, oán chị biết bao nhiêu khi thấy vợ con nheo nhóc bu
quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều.
- Ăn trên mồ hôi nước mắt của người ta nên lâu lâu bị đánh
cũng đáng đời, hen mấy cưng?
Chị nói, và ngã nghiêng cười, dường như chị thấy mình trả
giá vậy cũng vừa. “Mà hên nghen, nhờ vậy mà gặp được mấy cưng, được ở chung vầy,
vui thiệt vui...”.
Cha không vui, vì có thêm một miệng ăn. Bầy vịt cũng không
vui, chúng mổ vào chân chị mỗi khi chị bước qua rào, “bà ở đây làm chi để phần
ăn của tụi tui bị xén bớt, trong máng độn toàn là trấu ngán thấy ông thấy cha,
đã vậy còn bắt tụi tui đẻ trứng để nuôi bà”. Chị nhảy xổm ra, la oai oái, sau lại
cười (mà con mắt đung đưa phía cha) “mai mốt mấy con vịt quỷ này sẽ khoái chị,
mấy hồi…”.
Nhưng tôi và Điền biết thể nào chị cũng ra đi, trong mỏi
mòn. Quãng thời gian chị bên chúng tôi, vì thế cũng mong manh. Nhiều khi lùa vịt
ăn mót một đỗi đồng, nghĩ chị bỏ đi, Điền thảng thốt chạy về.
- Mấy cưng thương chị thiệt hả ? Tội chưa… !?? ”.
Chị ngạc nhiên, thấy nước mắt ràn rụa trên má thằng Điền (mà
chị không biết là nó bị bệnh chảy nước mắt sống từ hồi chín tuổi). Thật cảm động
khi đời đánh ta tả tơi bầm dập, vậy mà hai đứa nhỏ này lại trìu mến, quyến luyến
lạ lùng. Thêm một lý do nữa để chị ở lại với chúng tôi, trong một mùa hạn nóng
bỏng, bất thường.
Mùa đến sớm. Vì vậy mà nắng rất dài. Mới rồi, chúng tôi dừng
chân ở một xóm nhỏ bên bờ sông lớn mênh mang. Mỉa mai, người ở đây lại không có
nước để dùng (như chúng tôi đi trên đất dằng dặc mà không có cục đất chọi
chim). Người họ đầy ghẻ chóc, những đứa trẻ gãi đến bật máu. Họ đi mua nước ngọt
bằng xuồng chèo, nín thở để nước khỏi sánh ra ngoài vì đường xa, nước mắc. Buổi
chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm táp thứ nước chua lét vì phèn, rồi xối
lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau, rửa rau xong dành rửa cá. Con
nít ba tuổi đã biết quý nước, mắc lắm cũng ráng chạy ra vườn đái vô chậu ớt, chậu
hành (báo hại cây rụi lá). Ở đó, có người con trai bảo, “ước làm sao trước lúc
má tui chết, bà được tắm một bữa đã đời”. Câu nói này làm tôi thương anh ta quá
chừng. Hôm tôi đi, anh tần ngần đứng bên hè, hỏi nhỏ “Không biết em có muốn ở lại
với… má tui?!”. Tôi lắc đầu, hai gàu nước ít ỏi của má anh, tôi nỡ nào sẻ nửa ?
Tôi giục cha rời khỏi cái xóm tàn tạ đó. Những cánh đồng
chúng tôi qua, lúa chết khô khi mới trổ bông. Người ta không thể trồng đậu, trồng
dưa vì thiếu nước. Bầy con nít giỡn nhoi trên những con kinh khô trơ
lòng.
Chỗ chúng tôi cắm lều cầm vịt, nước đã sắc lại thẫm một màu
vàng u ám. Nhưng chúng tôi chẳng có chỗ nào để đi nữa, từ bờ bên kia của sông
Bìm Bịp là vùng đệm cho những cánh rừng tràm lớn. Mùa này, người ta lấy nước từ
tất cả các dòng sông nhỏ, các con kinh để bơm vào rừng, chống cháy. Chúng tôi
cũng không thể ngược sông Bìm Bịp băng qua vùng Kiên Hà, ở đó họ kiểm dịch thú
y rất gắt gao. Và dịch cúm gia cầm nghe đâu vẫn còn bùng phát khắp đồng bằng.
Để bầy vịt khỏi bị chôn sống (điều đó đồng nghĩa với việc đứt
vốn cho mùa sau), bọn tôi quyết định vẫn cầm chúng ở đây. Chúng được nuôi trong
sự mỏi mòn. Ngày ngày, tôi lùa vịt đi ăn mót những bông lúa khô quắt queo trên
đồng, không có nước chúng bì bạch, chậm rì và chẳng thể đi xa. Trứng thưa thớt,
những quả trứng chúng đẻ ra cũng chai ngắt, dài nhằng, nhẹ tênh, vỏ dày sần sượng.
Đòi hỏi gì nữa ở những con vịt đã già, đã đẻ quần quật suốt ba mùa trước, đã vô
vọng vì ngày càng khó tìm lúa và cám trong máng thức ăn. Ngay cả nước để chúng
tắm táp cũng chua lét vì phèn.
Mà, mùa mưa vẫn còn xa lắm.
Ngày ngày, Điền rủ chị đi giăng lưới, nhắp cá và tát những
cái mương cạn. Cá ăn không hết, chị đem vô xóm bán và hãnh diện đưa cho cha vài
mươi ngàn thừa sau khi đã sắm ít quần áo. Mắt chị nhìn cha đầy khiêu khích, “Cuộc
đeo đuổi vẫn còn dài, cưng à…”.
Chị đổ lì. Chị tìm mọi cách để sà vào cha. Một bữa chị bảo
Điền xuống ghe ngủ với tôi, còn chị sẽ lên chòi. Đó là một đêm tối nhờ nhờ,
trôi trên trời một mảnh trăng mỏng leo lét. Điền ngọ nguậy, xoay trở liên tục,
nó kêu khó ngủ, đòi nghe tôi hát, bài gì cũng được. Nhưng Điền vẫn thao thức,
dường như giọng hát tôi không át được tiếng sột soạt rạo rực trong cái chòi nhỏ
trên bờ. Điền chê ngủ ghe chòng chành quá chừng. Tôi biết lòng nó đang chao.
Điền có những ngày bối rối. Nó hay hỏi tôi, “người ta thương
mẹ ra làm sao?”. Mặt nó dãn ra, khi biết cây kẹp tóc, trái dừa tươi hay con cá
thác lác… mà nó dành cho chị cũng giống hệt như người ta vẫn thường cho mẹ. Và
niềm nhớ lúc đi xa, nỗi khao khát được nằm gần, được dụi mũi mình vào da thịt
người đó… cũng tự nhiên như ý nghĩ bình thường nhất của những đứa con. Nhưng những
nghi hoặc vẫn loay hoay trong mắt Điền, và nó quyết định chịu đựng một mình,
khám phá một mình. Thí dụ như đêm nay, cái gì khiến tim ta đau nhói, cái gì làm
cho ta cảm thấy giận dữ, nặng nề ?
Khi tôi thức dậy, Điền đã mệt mỏi thiếp đi, nó nằm co quắp,
hai tay kẹp giữa đùi, mặt buồn như phủ một lớp sương giá. Chị bước ra khỏi
chòi, khoan khoái vươn vai. Sự ưng ý, mãn nguyện lấp lánh trên khoé mắt. Khuôn
mặt chị tràn ngập ánh sánh, như chị vừa mở ra một cánh cửa mặt trời. Có một con
đường nào đó trãi dài trước chị. Chị cười, bảo :
- Hồi hôm sương nhiều ghê, nó nhiểu lên mặt chị hoài, nhột gần
chết.
Rồi chị giành nấu cơm. Chị xoắn tay áo lên hì hụi thổi lửa,
đầu tóc xấp xãi dính đầy vảy cá. Trông chị như bà vợ tảo tần. Hình ảnh ấy làm
tôi ứa nước mắt, nhưng cha tôi chỉ lạt lẽo nhếch cười. Vì cái cười đó mà tôi ứa
nước mắt thêm lần nữa.
Cha đưa chị một ít tiền ngay trong bữa cơm, khi nhà đủ mặt,
“Tôi trả cho hồi hôm…”. Rồi cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự
khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt. Chị nhét tiền vào trong áo ngực, cười,
“Trời ơi, ba mấy cưng sộp quá chừng”.
Điền và tôi rủ chị đi câu (Chúng tôi cho là chị buồn, dù
chuyện đó khá tức cười, làm điếm được trả tiền mà buồn nỗi gì). Suốt buổi,
không dính con cá nào, chị nói, “Mắc cười quá, tới mấy con cá quỷ này còn chê
chị”. Câu nói nghe tỉnh bơ, bâng quơ mà tủi vô phương. Điền lặng bắt con cá rô
lội xuống mương, lặn sâu, móc cá vô lưỡi câu của chị. Lúc nó trồi đầu lên thì
đã thấy chị cười.
Trưa ấy chúng tôi trầm nghịch dưới nước rất lâu. Chị cười
nôn khi thấy bùn bám dưới mũi tôi xám xanh như bộ râu củ ấu. Tự dưng nét mặt chị
bỗng âu yếm lạ, như đang nựng nịu một đứa bé con và thằng em trai mười bảy tuổi
của tôi đứng đực ra, chết lặng trong nỗi ngượng ngùng. Nước cồn cào chỗ bụng
nó, tôi biết chị đang táo tợn làm gì đó phía dưới. Rồi phát hiện ra một mất mát
lớn lao, chị thảng thốt kêu lên :
- Trời đất ơi, sao vầy nè, cưng?
Chị toàn hỏi những câu hỏi khó. Chỉ nghe thôi đã đau, nói
chi trả lời. Thí dụ như có lần chị hỏi “Má mấy cưng đâu?”, “Nhà mấy cưng ở chỗ
nào?”, thằng Điền đổ quạu :
- Biết chết liền!
3.
Những chiều ghe chúng tôi đi ngang qua những người đàn bà ngồi
giặt giũ dưới bến sông, tôi hay hỏi lòng, có phải tôi vừa ngang qua má đó
không. Tôi cố giữ trong lòng hình ảnh má nhưng rồi ngày càng tuyệt vọng khi thấy
nó nhạt nhòa dần, cứ nghĩ mai này gặp lại mà không nhận ra nhau, lòng nghe buồn
thiệt buồn.
Má tôi hay mang xoong chảo ra bực sông chùi lọ nghẹ, sẵn đón
ghe hàng bông mua ít rau cải tươi và bán lại những quày chuối chín bói trong vườn.
Dần dần, buổi chiều, đám thương hồ hay lại neo ghe chỗ mấy cây mấm trước nhà. Một
người bảo không sao xa được người đàn bà có cái cười làm lấp lánh cả khúc sông.
Má tôi nguýt dài :
- Dóc…
Người đàn ông cười hề hề, thề “Tôi nói láo cô Hai cho xe đụng
chết ngắc” (Ngay lập tức, Điền thì thầm, “thằng chả ở dưới ghe kiếm đâu ra chiếc
xe, nói dóc…”, và bằng cái vẻ ác cảm lạ lùng, thằng Điền biểu tôi nhìn khuôn mặt
và tấm lưng trần chi chít những nốt ruồi của ông ta, bảo “Tại hồi đó má ổng mới
sanh ổng ra quên lấy lồng bàn đậy, nên ruồi bu tùm lum”).
Cho dù người đàn ông ấy có quá nhiều nốt ruồi, cho dù chẳng
cao ráo, đầu ít tóc… nhưng với chiếc ghe chở đầy vải vóc, những người đàn bà
lam lũ quê tôi vẫn thường trông ngóng ông ta. Tất cả họ đều trở thành trẻ thơ
khi bước chân lên ghe, họ tíu tít, háo hức, họ thèm muốn đến bồn chồn rồi dùng
dằng trở lên bờ với tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi, thấy mình già khi ngang qua
bồ lúa vừa hớt bớt một lỏm, thằng cha bán vải lấy mấy giạ mà như khứa một ít tuổi
xuân đi. Cả đời, cái bồ lúa luôn làm lòng họ đau đáu, khi nghĩ tới bệnh tật,
chuyện cất lại cái nhà, hay dựng vợ gã chồng cho con cái.
Bồ lúa nhà tôi đã cạn từ sau Tết. Điều đó làm má tôi hơi buồn,
nhưng người bán vải xăng xái bảo, “Cô Hai cứ coi đi, không mua cũng được – rồi
ông ta sửng sốt khi thấy má rạo rực khi ướm thử những khúc vải rực rỡ lên người
– Chèn ơi, coi nó bình thường vậy mà khoác lên mình cô Hai lại thấy sang quá trời”.
Má bỗng nhiên thắc thỏm :
- Dóc…
Tôi chưa bao giờ thấy cái màu đỏ lạ lùng ấy. Đỏ hơn bông bụp
ngoài sân, đỏ hơn máu. Má ngó chúng tôi, hỏi: “Gì mà nhìn trân trân vậy hai đứa
?”. Tôi nói, “Má lạ quá hà, nhìn không ra”. Má mừng quýnh, “Thiệt hả ?”. Tôi muốn
khóc quá chừng, má con xa lạ với nhau mà sao lại mừng?
Một bữa tôi chiêm bao, chẳng đầu chẳng cuối gì, chỉ thấy vía
má giãy dụa trong tấm vải đỏ lạ lùng kia nhưng nó thít chặt, riết lấy, siết dần
cho tới khi má thành một con bướm nhỏ, chấp chới bay về phía mặt trời. Giật
mình thức dậy mới hay mình ngủ quên trong kẹt bồ lúa, con chó Phèn ngoài hè nôn
nóng cào đất rột rẹt chỗ cái lổ chui (Chắc má tưởng hai chị em tôi đi chơi nên
chốt cửa trước cửa sau mất rồi). Mà Điền ngồi ém ngay đó, lì ra, không cục cựa,
mình nó mướt mồ hôi, không có vẻ gì là nó đang khóc, nhưng nước mắt chảy ròng
ròng. Tôi ôm đầu nó, giấu ánh nhìn của nó vào ngực mình.
Đứa mười tuổi quay lưng lại, đứa chín tuổi úp mặt vô áo chị
nó, nhưng cả hai vẫn như thấy rõ ràng, trên chiếc giường tre quen thuộc, má oằn
uốn người dưới tấm lưng chơm chởm những nốt ruồi. Họ cấu víu. Vật vã. Rên xiết.
Đó là hình ảnh ấn tượng cuối cùng của má tôi trên nền một
cái nhà nhỏ, đằng trước có bộ bàn chữ U, bộ vạc tre, rồi đến một cái bồ lúa nhỏ
dựng gần giường ngủ, và gian bếp thấp. Quanh hè, dài theo những lối đi ra vườn,
ra bến là những cục đá tảng, những thân dừa chẻ hai, cha tôi đã hì hục lót để
suốt một mùa mưa, chân má tôi không bị dính sình bùn.
Suốt nhiều năm sau đó, tôi không dám nhớ má, bởi ngay vừa
khi nghĩ đến má, ngay lập tức hình ảnh ấy hiện ra. Theo đó là rực rỡ trên da thịt
màu vải má tôi vừa đổi được (không phải bằng tiền, hay lúa). Mà, đáng lẽ phải
nhớ tới khúc má nằm võng hát đưa mình ngủ ấy, hay đoạn má ngồi giặt áo bên hè,
hay má cúi đầu giữa vầng khói mơ màng, thổi lửa bếp ung…
Má có rất nhiều hình ảnh đẹp, và cả khuôn mặt lo lắng của má
khi chiều ấy vẫn còn đẹp, nhìn thấy nước mắt không ngừng tuôn rơi trên mặt thằng
Điền, má thảng thốt hỏi : “Mèn ơi, mắt con sao vậy?. Tôi trả lời, day day chậm
rãi, “Chắc tại nó nhìn thấy chuyện bậy đó, má. Trưa nay nó ngủ kẹt bồ lúa”. Má
chết lặng nhìn tôi, cái nhìn như lịm đi trên khuôn mặt đẹp não nề. Không thể giải
thích vì sao tôi lại hể hả.
Và tôi luôn nghĩ rằng chính vì câu nói đó mà má tôi ra đi.
Tôi chạy qua nhà hàng xóm, nói với thím Tư rằng má đi mất
tiêu rồi. Cả xóm tưng bừng, kẻ mừng vì vợ mình chưa bỏ theo trai, người vui vì
con đàn bà đẹp nhất xóm đã đi rồi, khỏi lo ông chồng suốt ngày thòm thèm dòm
ngó, cũng có người buồn, ghe vải chắc chẳng quay lại xóm này. Mọi người bàn ra
tán vào, xôn xao, bắt tôi nhớ lại coi trước lúc đi má tôi có hành động gì đặc
biệt mang tính dự báo không? Chuyện này quan trọng lắm, nó cho người ta tự kiểm
tra trình độ trải nghiệm, suy đoán. Thí dụ như nhà nào có người mới mất họ kêu
lên, hèn chi đêm trước có nghe chim cú kêu, thê thiết lắm. Thí dụ như nhà nào bị
mất trộm, họ bảo nhau, hồi hôm tui nghe tiếng chó sủa thiệt kỳ, là tui nghi rồi…
Nhưng chuyện ra đi của má tôi không mấy ly kỳ...
- Hồi chiều má con không nấu cơm…
- Vậy sao ?
- Má con nằm trên giường thở dài…
- Vậy hả? Thở ra làm sao?
Tôi hết biết tả. Tiếng thở thườn thượt, nghe buồn mênh mông,
chảy từng giọt như nước mắt. Má tôi thở dài khi ghe cha ghé bến vì biết mai mốt
cha lại đi. Má tôi thở dài khi tắm, khi nước trôi dài trên làn da trắng như
bông bưởi. Lúc ngồi vá những bộ quần áo cũ. Mỗi lần ghe vải ghé trước bến, má
cũng thở dài, tay bối rối nắn vào hai túi áo mỏng kẹp lép. Thở dài cả khi thằng
Điền bảo cho con xin tiền mua kẹo, má ơi.
Mọi người không thất vọng, họ cho thời gian lùi lại xa xa,
thì ra cũng đã có điềm báo trước mối nhân duyên này tan rã, ngay cái bữa đầu
tiên, ngay lần gặp đầu tiên. Má tôi ngồi khóc bên bực con sông Dài, cha tôi
chèo ghe đi ngang, đã qua khỏi một quãng nhưng vì mủi lòng, cha quay mũi lại.
Cha hỏi, cô về đâu tôi cho quá giang. Má tôi ngước lên, mặt ràn rụa nước, “tôi
cũng không biết về đâu”. Cha tôi chở người con gái tội nghiệp này về nhà, và
trong thời gian suy nghĩ tính coi mình đi đâu, má yêu cha mất rồi, sau đấy thì
đẻ hai chị em tôi. Rõ ràng, quá rõ ràng, thấy chưa, má tôi chỉ quá giang một
khúc đời rồi đi, ai cũng linh tính vậy, chỉ cha tôi là không, nên bây giờ mới
khóc hận, cười đau.
Tới đây thì hết chuyện nói, hàng xóm ra về. Giống hệt như vừa
tan đêm hát, họ xì xào đi vào trong đêm, tiếng chó sủa rộ lên dài theo những
con đường xóm. Tôi và Điền nằm nhìn trân tráo lên nóc mùng, nghe gió hui hút
trên những ngọn tre già bên hè. Một hồi, thím Tư qua, thím kêu hai chị em tôi
qua nhà thím ngủ.
Sáng sau, thím đi chợ, tới bến tàu, cho hay “Vợ Út Vũ bỏ nhà.
Theo trai” Ông chủ chiếc đò chạy tuyến Hưng Khánh nói lại với mấy bà bạn hàng,
và chiều lại cha tôi mới nhận được lời nhắn ấy khi đang lên đòn dong cho một
ngôi nhà gần chợ Hội. Nghe nói cha tôi còn cười, giọng ra vẻ giận, “Bộ hết chuyện
giỡn rồi sao, cha nội?”. Có vẻ khó tin, khi một người nghĩ rằng, chỉ cần mình hết
lòng yêu thương, gánh hết sự kiếm sống nhọc nhằn thì sẽ được đền đáp xứng đáng.
Có vẻ buồn cười… Và cha tuột xuống đất, run rẩy…
Quãng hành trình về nhà có vẻ rất dài và khắc nghiệt, nó vắt
kiệt cha tôi. Cha cười cay đắng, khi thấy quần áo má còn treo trong nhà, còn cả
cái khăn tắm và đôi dép Lào cũ, như thể má đang chơi bên xóm, chỉ cần thằng Điền
kêu má sẽ xấp xãi chạy về, mừng húm hỏi “Đi chuyến này nữa là đủ tiền mua ti vi
màu, phải hôn anh?”.
Coi kỹ thì má không đem theo gì. Chi tiết đó làm đau lòng
người ở lại, nó cho thấy người đi đã chẳng suy nghĩ, đắn đo, đã không một chút
trù trừ, chỉ rũ mình cái rột, sạch trơn, vậy thôi.
Cha đem tất cả đồ đạc của má đem đốt. Khói bay mù mịt trong
nhà, mùi vải, mùi nhựa cháy khét lẹt, những cái áo hồng áo tím rúm ró lại, chảy
thành những giọt tro. Cha nhìn ngọn lửa, mặt đanh lại, rồi mắt bỗng rực lên,
ngây ngất vì một ý nghĩ mới lạ.
Chúng tôi dong ghe đi, quặn lòng ngoái lại căn nhà đang quay
quắt dãy dụa trong lửa đỏ. Nghe vẳng theo âm thanh lốp bốp rất giòn của những
thanh gỗ cháy, và tiếng xóm giềng í ới gọi nhau. Chắc chắn sẽ có người vỗ đùi
cái đét, “Hồi hôm qua, ngó cái mặt u ám của Út Vũ, tui nghi thể nào thằng chả
cũng đốt nhà. Nghi đâu có đó, thiệt là y như để vậy, các cha”.
Kể nhiều chuyện như vậy là để trả lời chị, nhà tôi, má tôi,
rốt cuộc đã trở thành tro bụi mất rồi. Nên khi hết mùa lúa chín, những người
nuôi vịt chạy đồng khác đã trở về nhà còn chúng tôi lại tiếp tục lang thang.
Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng này đến cánh đồng
khác. Đôi khi không hẳn vì cuộc sống, chúng là cái cớ để chúng tôi sống đời du
mục, tới những chỗ vắng người. Ở đó, ít ai phát hiện ra sự khác thường của gia
đình tôi, và ít hỏi cái câu, “Má mấy đứa nhỏ đâu?”. Để cha phải buột lòng nói
“chết rồi!” và cười lạt khi nghe người nào đó kêu lên : “Mèn ơi, tội hai đứa nhỏ
hôn”.
4.
Lần đầu tiên hai chị em tôi lạc giữa đồng. Cơn mưa buổi xế
chiều làm tắt rụi ánh mặt trời, và đêm tối nhanh chóng ập xuống. Mưa giăng bốn
bề, những rặng vườn trở nên xa vời, mờ mịt, căn lều và chiếc ghe của mình nằm ở
phía nào vậy ta, Điền hoang mang hỏi. Chúng tôi lội xom xom xuống một mé vườn
và rã rời tuyệt vọng xua bầy vịt quay ra. Cha tôi đã bỏ về ghe từ giữa trưa, có
thể cha đã uống rượu say và ngủ mất tiêu. Có thể cha còn thức nhưng cha không
đi tìm. Khóc đã đời, một hồi, thấy trời ngày càng tối, chúng tôi quyết định
buông trôi, tha thểu đi theo bầy vịt, biết đâu…
May sao, chúng nhớ đường về. Khi nhìn thấy ánh đèn chong leo
lét đầu ghe, chúng tôi mừng như chết đi sống lại, Điền nắm tay tôi chạy như
điên, nước đồng văng sáng trắng. Bầy vịt tao tác một phen (báo hại đêm đó tụi
nó nín đẻ). Cha tôi ngồi chờ bên cạnh cây roi.
Sau này, đã tự học cách định hướng bằng bằng mặt trời, bằng
sao đêm, bằng gió, bằng ngọn cây… nghĩ tới lần lạc đồng, thấy cười quá chừng. Mắc
cười hơn là Điền, vốn rất sành sỏi đường đi nước bước, lại bị lạc lần nữa, giữa
ban ngày. Nó loay hoay ở giữa một gò đất chùm gọng leo dày mịt, không biết vô đó
bằng đường nào nhưng chẳng thể quay ra, có người đàn bà bưng rổ bánh quy lại,
biểu nó ăn. Đói quá, thằng Điền ngốn gần chục cái. Lúc tôi tìm được nó nhờ tiếng
rên ư ử, bụng nó đã lặc lè, và miệng đầy sình đất. Quay đi quay lại không có
bóng người, chỉ có cái mả lạng nằm sát đất, rời rợi cỏ xanh.
Những ngày sau này, tôi một mình trở lại gò đất, nhưng chờ
hoài không thấy ma hiện ra. Nghe thằng Điền kể, người đàn bà đó thiệt hiền, chỉ
đau đáu vuốt tóc nó và ánh nhìn chan chứa thương yêu. Tôi nghe mà khóc muốn chết,
sao con ma đó không chịu giấu tôi giùm cái.
Rồi tôi ngồi quẹt tay lau nước mắt đi, kỹ càng, để gương mặt
an nhiên, ráo hoảnh. Tôi quyết không để cha thấy mình buồn, quyết không để cha
bật ra cái câu “Chịu hết nổi cái cảnh sống này rồi hả? Chừng nào đi ?”.
Cha vẫn thường đánh chị em tôi, thường đánh khi vừa ngủ dậy.
Đó là khi người ta thấy hoang hoải, chán chường, sau một giấc dài, mở mắt ra, vẫn
gió đìu hiu, vẫn nắng võ vàng trên những cánh đồng hoang lạnh. Và tôi tự nhớ lại
coi hồi sáng này, hồi trưa này mình đã làm gì giống má, kho cá bỏ quá nhiều
tiêu? Hay vì tôi buộc tóc nhong nhỏng? Hay tại tôi ngồi bắt chí cho thằng Điền
?
Hay tại tôi càng lớn càng giống má. Có bữa, nửa đêm thằng Điền
thức giấc, nhìn thấy tôi day lưng lại lui cui vá áo, nó thảng thốt kêu “Má
ơi!”. Tôi cảm thấy mình thất vọng đến rã rời. Những thói quen, những cái gì
liên quan đến má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng tôi làm sao có thể từ bỏ hình hài
này.
Tôi đành để cha đánh để ông bớt đau chút lòng. Sau này chị
em tôi không day dứt chi cho mệt, vì hiểu thấu ra, mình bị đòn chỉ vì là con của
má, vậy thôi.
Với chúng tôi, quãng thời gian ấy vẫn còn vui lắm, sau này,
cha tôi chán không đánh nữa. Cha ơ thờ, lạt lẽo, chuyện gì cần nói thì nói vài
câu nhát gừng. Cha giao bầy vịt cho hai đứa tôi, lúc rảnh ngồi gọt đẽo những
cán dao, tấm thớt hay lẳng lặng vác cần câu đi câu cá, vừa bán được tiền, vừa
khỏi phải nhìn những đứa con của một bà mẹ bạc lòng. Thành ra, cái ghe thấy nhỏ,
lại rộng vô cùng tận, loay hoay chỉ ba con người, nhưng nhiều năm trôi qua, hai
chị em tôi vẫn cảm thấy xa cách cha. Có lần, khi đi trên sông, thằng Điền giả
đò té chìm ngỉm mất tăm, tôi giả đò kêu la chói lói, cha hơi giật mình hoảng hốt,
dợm lao xuống nước, nhưng rồi cha điềm nhiên ngồi lại, tiếp tục gọt đẻo, chắc
là nhớ ra thằng Điền đã lặn lội nước sông từ năm bốn tuổi, sức mấy mà chết
trôi.
Chúng tôi biết là khó đòi hỏi gì hơn nữa, chỉ một chút xao
lòng của cha, là mừng lắm rồi. Cha giống như đồ vật bằng gốm vừa qua cơn lửa lớn,
vẫn hình dáng ấy nhưng đã rạn nứt, nên chúng tôi chỉ dám đứng xa mà nhìn, mủ mỉ
nâng niu, nếu không thì vỡ mất.
Và chiếc ghe, cánh đồng, dòng sông thênh thang mãi…
Tôi và Điền buộc phải tự học lấy cách sống. Nhiều khi dễ đến
không ngờ… Nhờ Điền bị rắn hổ đất cắn mà chúng tôi biết được cách phân biệt vết
răng của rắn độc. Nó để lại trên cổ chân Điền một cặp vết răng như hai cái lổ
nhỏ, sâu hoắm. Tất nhiên, phải nhờ người thợ gặt tốt bụng vác thằng Điền chạy một
đỗi đồng để tới ông thầy lấy nọc rắn, nó mới giữ được cái mạng để rút… kinh
nghiệm. Sau này, một lần băng qua một đám cỏ dày, đến lượt tôi bị rắn cắn, tôi
kêu, Điền ơi, chắc Hai chết trước à. Thằng Điền nhìn vết thương nó cười, nói
không sao, số Hai sống lâu lắm, hai hàng răng tươm máu giống hệt nhau như vầy,
chắc cú là rắn bông súng cắn chơi thôi. Và nhìn bướm bay, nhìn mây trôi tôi biết
ngày nắng hay mưa. Nghe bìm bịp kêu chúng tôi biết nước lên. Dừng ghe ở một tuyến
kinh nào, thằng Điền trèo lên ngọn cây cao, ngó bao quát cánh đồng và tính toán
xem có thể cầm vịt ở đấy bao lâu thì hết thức ăn, đúng chóc. Hay chúng tôi tự
phán đoán ở đâu vụ mùa đến sớm, vùng nào lại trễ tràng để rời cánh đồng này,
chúng tôi đến ngay một cánh đồng khác, ngay khi lúa vừa chín tới.
Thành ra, mùa du mục của chúng tôi kéo dài liên tục từ mùa
mưa sang nắng, rồi lại mưa. Nhiều lúc tôi hơi nhớ con - người. Họ ở trong cái
xóm nhỏ kia, chỉ cách chỗ chúng tôi dựng trại vài ba công đất. Họ lúc nhúc trên
thị trấn kia, nơi chúng tôi vẫn thường ghé lại mua gạo, cám, mắm muối… dự trữ
cho những chuyến chạy đồng xa. Và họ ở gần ngay đây, họ vừa gặt lúa vừa nói
chuyện tục tĩu rồi cười vang bên bầy vịt đang rúc rích tìm thức ăn, nhưng tôi vẫn
nhớ...
Có lẽ vì cuộc sống của họ ngày càng xa lạ, với chúng tôi. Họ
có nhà để về, chúng tôi thì không. Họ sống giữa chòm xóm đông đúc, chúng tôi
thì không. Họ ngủ với những giấc mơ đẹp, chúng tôi thì không. Nằm chèo queo, co
rúm, chen chúc nhau trên sạp ghe, chúng tôi đánh mất thói quen chiêm bao. Điều
này làm tôi và Điền buồn biết bao nhiêu, vì cách duy nhất để được nhìn lại hình
bóng má cũng tan rồi. Mà, thí dụ như những cơn chiêm bao quay trở lại, chúng
tôi không biết chắc là hình ảnh ấycủa má có xuất hiện hay không.
5.
Mùa khô năm tôi mười ba tuổi, bầy vịt lăn ra chết gió. Để kiếm
sống, cha tôi quay lại với nghề thợ mộc. Cha nhận đóng giường, tủ cho một vài
nhà trong xóm Bàu Sen, chúng tôi neo ghe lại đó dài ngày.
Cái cảm giác đang ở xóm cũ (có ngôi nhà cũ) vây riết lấy
chúng tôi (chữ “chúng tôi” tôi không kể cha vào). Những trưa xế ngồi ngoài hàng
ba một nhà trong xóm, tôi tước lá dừa thắt cào cào châu chấu, Điền ngó nắng
rưng rưng ngoài sân, nói “sao gió ở đây giống hệt gió nhà mình”. Hai đứa tôi muốn
khóc.
Chị chủ nhà ngần ngại nói với cha, “Ngó mặt hai đứa con anh
thấy thương quá, thấy… không bình thường”. Cha tôi cười nhẹ, “Vậy hả ? Ờ ờ…”.
Đứa con gái chị chủ nhà trạc tuổi thằng Điền, rủ chúng tôi
vào nhà chơi. Nhưng nó luôn nhận được những cái lắc đầu. Chúng tôi sợ quá cái bồ
lúa trong nhà, hình ảnh nó làm cả hai chị em ngạt thở. Thật lạ làm sao, khi mà
chúng tôi đã quen dần với những - hình - ảnh - giống - mình (tức là bị bỏ giữa
đời chơi vơi), thí dụ như nhìn một chiếc đũa gãy, cái nắp nồi vỡ, hay bầy gà
con lạc mẹ nhao nhác… Nhưng không quên được, cái bồ lúa ngai ngái mùi cứt trâu,
giữa nó và vách nhà là một khoảng hơi tối nhưng rất thu hút trẻ con. Chúng hay
giả bộ đó là nhà của riêng chúng, để bày biện, nấu nướng, đóng vai chồng vợ,
vai má con. Để lúc bị đòn, chúng cũng chui tọt vào đó, khóc một mình, nhiều khi
ngủ quên luôn (và người lớn thì hãi hùng, sao không thấy đứa nhỏ đâu, nó bỏ đi
về ngoại, nội? hay đã vô ý trợt chân té xuống đìa?. Cái kẹt bồ lúa, cũng đã từng
là thiên đường mơ mộng của hai chị em tôi, bẻ trái trứng cá làm cơm, muổng dừa
là chén, giả đò “ăn” no, giả đò tối rồi, đi ngủ, một bữa kia chơi chán lăn ra
ngủ thiệt, thức dậy bỗng thấy cuộc đời mình thay đổi quá trời đất, như đã sống
qua một kiếp rồi. Nhưng chín mười tuổi đã đủ để gọi là một kiếp người chưa ?
Chúng tôi chẳng phải những đứa trẻ bình thường, cuối cùng nhỏ
con chị chủ nhà cũng nhận ra, nó bỏ mặc. Nó là một đứa trẻ xinh đẹp nhưng hỗn
hào, cái kỉnh, nó chẳng khi nào kêu má ơi má à, khi cần, nó chỉ cộc lốc bảo,
tui đói bụng quá bà ơi. Người mẹ phân bua với cha tôi, “Tại ba nó mê theo vợ bé
nên không ai dạy…”.
Chị cũng bận rộn, te tái cắp nón đi suốt, tìm ông thầy này,
bà cốt kia, để thỉnh bùa chú cho ông chồng quay lại. Và mỗi khi thất bại, chị lại
quả quyết là bùa của tình địch mạnh hơn. Nói như vậy dường như để cho tâm bớt
đau trước sự thay lòng. Chị có cả một kho tàng về chuyện đồng cốt, những người
có khả năng thấu đáo cõi âm, cõi trời và cõi người. Họ biết chữa bệnh (có thể lấy
từ bụng ta ra một nùi tóc với cái lưỡi dao cạo, hay dùng hột gà luộc lăn trên
da thịt ta, sau đó bẻ cái trứng ra cho ta coi một nhúm lông… chó mực), cũng biết
dùng những tấm bùa được vẽ bằng máu… lưỡi để ếm chết người và cuối cùng, họ đem
được người ta yêu trở lại. Chỗ này khá mắc cười, bởi tấm bùa có linh nghiệm thiệt
thì người quay về cũng không phải của - mình. Những săn sóc nâng niu, những lời
nói ngọt ngào… tất cả đều không thật (mình biết tỏng tòng tong là nhờ bùa ngãi
chớ thương yêu gì). Và cái cười dịu dàng kia, ánh mắt ấm áp kia, nụ hôn ngọt
ngào kia, vòng tay nồng nàn kia… cũng vậy. Đó là chưa kể phải thoi thóp lo âu một
ngày bùa thiêng hết tác dụng, thằng đàn ông rùng mình một cái, ngơ ngác hỏi ủa,
sao hai đứa mình nằm chung giường vậy, xin lổi nghen, chắc tại hồi hôm tui xỉn
quá nên chui ẩu vô mùng bà. Rồi ông ta nhìn vẻ mặt đau đớn của mình, kinh
hoàng: “Trời đất ơi, bộ tui đã làm gìbậy bạ sao ?”. Tất cả sẽ chấm dứt ở đó,
ông nọ phủi sạch những ngày tháng mặn nồng. Với ký ức trống trơn, họ phơi phới
ra đi, còn mình thì nhớ hoài, đau hoài…
Nhưng chẳng tin vào bùa thì còn biết làm gì nữa, chị cũng đã
lặn lội tới nhà tình địch, đã xé quần áo của cô ta, xởn tóc, lôi xểnh ra biêu
riếu giữa chợ rồi, chị kể. Bằng cái giọng rộn rã, giòn tan chỗ cao trào, rồi chị
hết sức chậm rãi, tỉ mỉ, tả cái đoạn chị dùng dao rạch mặt cô ta và xát muối ớt
vào (những người quê mình vẫn thường làm chuyện đó rất bình thường, sẽ buồn cười
khi có ai đó nói làm vậy là vi phạm điều X chương Y luật hình sự, họ cãi ngay,
“Ủa, nó cướp chồng tui thì tui phải đánh cho tởn chớ”, với vẻ mặt tự hào ngút
ngất, tỉnh bơ, ngây thơ, tựa như một người đi qua trận địa cũ và nói với ông bạn
mình, hồi năm bảy hai tui bắn thằng lính cộng hòa ở chỗ này, óc nó nát như
chao, con mắt văng ra xa cả thước. Ông bạn chẳng ớn, nói tôi cũng cắt cổ thằng
Mỹ ở đây chớ đâu)
Sau đận đó, chồng chị bỏ ngay cô nhân tình này và trớ trêu,
anh ta chạy theo… cô khác. Ba mùa lúa rồi chị ra đồng một mình. Một mình nuôi
con. Một mình nhìn gương, tự ve vuốt và yêu lấy mình…
Cái sàn lãn sau nhà đã ba năm vắng bóng đàn ông. Một chiều
chúng tôi đến, xẻ mấy cây đố xong, cha ra đó tắm. Nước chảy re rắt trên khuôn mặt
lạnh lùng, nước mỏng tang tràn qua những thớ thịt đỏ au của cha tôi. Chị chợt
giật thót người, cài vội chiếc nút áo bung ra vì không chịu nỗi đôi vú căng tức.
Ngay lập tức, tôi có cảm giác câu chuyện về những lá bùa vẽ
nhì nhằng chị dấu trong áo gối, ém dưới chiếu, hay kẹt giường… không còn ý
nghĩa gì hết. Chị cũng sững sốt khi nhận ra điều đó. Giường đã làm xong, đáng lẽ
chúng tôi phải dời đi, nhưng chị chủ nhà muốn đóng thêm hai cái tủ nữa. Chị
thuê hàng xóm xuống ao mò lên những thân gỗ đã ngâm lâu và chở tới xưởng cưa.
Rõ ràng là chị không chuẩn bị trước, rõ ràng chị muốn giữ cả nhà chúng tôi lại.
Chúng tôi được đối xử rất tử tế, ngoài hai bữa cơm, buổi
trưa, chị hay đãi thêm nồi chè, hay khoai luộc. Chị nồng nhiệt bảo chúng tôi
lên nhà ngủ, nhà rộng rinh như vầy không cớ gì phải ngủ ghe. Cha tôi trù trừ
nhưng rốt cuộc cũng gật đầu (với một thoáng giễu cợt), thật không nỡ chối từ một
tấm lòng như thế.
Tôi và Điền ở lại ghe, tôi nói, ngủ ở đây gió mát quen rồi,
với lại, tụi tui phải giữ đồ. Nói tới chỗ này tôi mắc cười muốn chết, chiếc ghe
tơi tả, đáng giá gì đâu mà giữ. Có mấy ông thống kê gì đó làm chứng, mấy ổng đã
ngao ngán như thế nào khi thấy chỗ ở ngang mét hai dài ba mét mốt cho ba nhân
khẩu, điều tra thêm thì phương tiện nghe nhìn giải trí chỉ cái radio trị giá mười
bốn ngàn, nguồn nước sinh hoạt từ sông, thu nhập ờ thì vài ba triệu một năm, tuỳ
vào ông trời, như năm nay, thì trắng tay…
Và ngó lại cái khạp da bò nứt, trong rỗ úp vài cái chén
sành, một thùng giấy chứa quần áo cũ… thấy mình lấy cớ giữ đồ hơi vô căn cớ.
Nhưng chị chủ nhà không để ý, chị đang ưng bụng, ngây ngất tràn trề trong mắt.
Và cha tôi lên đó, một mình.
Tôi ôm quắp thằng Điền nghe những con sóng nhỏ lách tách vỗ
vào mũi ghe, nói, Hai nhớ trường học quá à, cưng (Ôi cái trường xiêu dựng trên
khu vườn chùa đầy cây thuốc, có ông thầy trẻ tuổi hay vò đầu tôi và xao xuyến hỏi,
má khoẻ hôn con ?). Thằng Điền hỏi lại, “Mắc gì mà nhớ ? Lãng òm…”. Tôi không
biết, tôi đã ngưng nhớ nó từ khi sống cuộc sống trên đồng, nhưng đêm nay, sao
tôi lại nghĩ tới, cả chuyện kiếm tiền để chữa mắt cho Điền (tôi vẫn nghĩ, sự xuất
hiện của nước mắt chỉ có ý nghĩa khi người ta khóc). Đêm nay, tôi sao thế này ?
Vì nhìn thấy niềm hy vọng ư ?
Và tôi ngủ trong nỗi xốn xang.
Lúc thức dậy thì hy vọng cũng thức theo, sáng hôm đó, tôi thấy
cha trút bỏ vẻ lầm lũi thường ngày, mắt ông hay rực lên, nói cười rất lạ, dường
như cha bừng tỉnh nhận ra giá trị của mình, tìm thấy con đường sẽ đi. Những suy
nghĩ cồn cào làm cho vẻ mặt cha lung linh như bầu trời nhiều mây và gió. Thoắt
quang đãng thoắt âm u, thoắt khoái trá, thoắt đau đớn…
Chị chủ nhà cũng thất thường, đang tươi hơn hớn bỗng bần thần
khi thấy cha đóng xong một cái tủ nữa rồi. Chiếc tủ chén này, cha mất năm ngày
mới hoàn thành, nhưng không sớm hơn được, vì chị chủ nhà lúc thì bưng nước ra,
lúc lại kêu nghỉ tay ăn bánh, anh thợ à. Nhiều lúc chơi ngoài hàng ba, nghe tiếng
bào trượt trên ván ọt ẹt ngừng lại, buổi trưa im phắc. Và đống dăm bào bị dẫm tạo
ra âm thanh lạo xạo lao xao lào xào. Chúng tôi biết chị đang ở ngay chỗ cha.
Không hiểu sao tôi lại nghĩ chị chủ nhà chính là hy vọng để
chị em tôi trở về cuộc sống bình thường với một người - cha - bình - thường.
Chúng tôi luôn tạo cơ hội, khoảng trống cho chị gần gủi với cha. Cực nhất là phải
rủ rê lôi kéo nhỏ con chị chơi với chúng tôi, thằng Điền khó chịu, “đồ con
nít…”. Tôi cười, “thôi, kệ nó…” mà lòng nghĩ, biết đâu mai mốt con nhỏ này với
mình là một gia đình. Biết đâu đó là một mối tình dài.
Nên tôi thấy hơi lo khi cha sắp hoàn thành chiếc tủ áo cuối
cùng. Buổi chiều, cha xin những mảnh cây ván vụn đắp vá lại mui ghe. Nghĩa là
chúng tôi sẽ tiếp tục đi. Chị chủ nhà ủ ê, suốt buổi chị giằm đũa vào chén cơm
nguội ngắt. Cha nhìn chị, cười nhẹ, rồi hỏi khẽ khàng :
- Cô đi với cha con tôi nghen ?
Như chờ đợi chỉ có thế, chị gật đầu, mặt tở mở và rạng rỡ, gần
như không suy nghĩ gì (Má tôi cũng đã từng chọn lựa nhanh như thế sao ?). Tôi bất
giác ứa nước mắt, rồi nhận thấy cha đang nhìn mình, tôi bệu bạo cười, “cắn
trúng cái lưỡi đau quá trời”.
Chị chủ nhà bắt đầu sống với những giây phút bồn chồn, chị
loay hoay, te tái tới lui. Chị kiếm lủ khủ giỏ xách, những muốn gói ghém thật
nhiều đồ đạc nhưng nhận ra chiếc ghe chẳng chứa nổi, nên quăng phẹp một bên. Cuối
cùng, chị đưa nhỏ con về chơi bên ngoại, và trong lòng chị em tôi bùi ngùi tiễn
nó đi như đưa tiễn một cuộc đời. Mai nó vẫn sống, nhưng mà sống khác. Rồi chị
quay lại, ra bực sông, ngồi đắm đuối nhìn ngôi nhàcủa chúng tôi, “những ngày sắp
tới của mình ra làm sao, ta?”.
Dễ hình dung lắm. Như chỗ cái sạp xỉn màu tôi đang giặt vải
lau đây sẽ là nơi chị sẽ ngủ, sáng ra chị vẫn không phải rời chỗ ấy, vì chỉ cần
ngồi dậy, day mặt ra phía sau là đụng bếp, là có thể nhen lên một lọn khói buồn
teo. Mấy đêm đầu có lẽ không quen, vì phải nằm chèo queo, ghe thì chao sóng. Mấy
đêm đầu chắc chị hơi ngại ngùng, mắc cỡ vì ở ghe không có vách ngăn, vì thế chị
em tôi sẽ cố ngủ thật say, ngáy thật to để át những tiếng thở hổn hển, dìu dặt.
Chị cũng sẽ mất khá lâu để thích hợp với nhiều hình ảnh mang tính ước lệ, thí dụ
như mấy bụi hành ngò trồng trên cái xô bể (thay vì khu vườn cây cỏ hoa trái
mênh mông), hay cái lò cà ràng nhỏ (thay vì cả một gian bếp ấm sực mùi củi lửa)…
Và nghe cha tôi than, tôi chán cái nhà này quá rồi, thì cũng nên hiểu là không
có cái nhà nào cả. Nhà chúng tôi là cái này, là cánh đồng nào đó, con sông nào
đó... Riêng chúng tôi thì không cần chị phải yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ gì hết.
Chúng tôi không hy vọng điều đó (đến con chị còn không hy vọng gì mà). Ngay lúc
này đây, cứ nghĩ, một bữa trưa mai trưa mốt nào đó, có nắng hiu hiu và gió hiu
hiu, vì muốn chứng minh tấm lòng của mình với cha, muốn tỏ thái độ hoà hợp với
hai đứa trẻ lạ lùng này, chị bắt thằng Điền lại, xối nước kỳ cọ những mảng đất
đã dính khắn trên làn da mốc meo của nó, miệng cắm cẳn, cằn nhằn hay biểu tôi
ngồi để chị thắt bím tóc cho, chắc tôi thấy khó chịu vì xa lạ và buồn cười.
Nhưng tiếc rằng không có ngày mai, mốt đó. Chị bị cha tôi bỏ
lại, khi vừa đi được một đoạn đường. Một đoạn đường đầy khó khăn. Chị buộc mình
tin rằng sự chọn lựa này là đúng, tình yêu này xứng đáng được đánh đổi. Xóm
làng, ngôi nhà, vườn tược trôi tuột lại phía sau. Và đứa con gái… Rất cố gắng,
chị mới thôi thảng thốt. Cha ghé một chợ nhỏ đầu xóm kinh, biểu chị lên mua một
ít củ cải muối đem theo. Người vừa khuất trong tiệm tạp hóa, cha cười. Chị em
chúng tôi mãi mãi không quên cái cười đó, nó vừa dữ dội, đau đớn, hoang dã, cay
đắng, nghiệt ngã. Cái cười thật dài, riết lấy khuôn mặt cha, làm mắt cha hơi lồi
ra, ánh lên như có nước. Cha quăng đồ đạc của chị lên bờ vung vãi. Và nổ máy
cho ghe đi.
Có ai chờ chúng tôi, trên những cánh đồng khơi ?
(Còn tiếp một kỳ)
Nguyễn
Ngọc Tư