Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat
(miền bắc nước Pháp) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm
nhum lại thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển. Người
trong làng gọi cái nhà đó là " nhà ông Lê ".
Cách đây mấy
năm, ông Lê -người Việt Nam độ 40 tuổi - từ Paris ra đây mua lại cái nhà đó để
làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông đưa vợ con - vợ người Pháp và
hai con trai chín mười tuổi - ra đây đổi gió và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm
bảy hôm. Ông có mướn một người trong làng -tên Jean Marie- trông nom nhà cửa và
cắt tỉa vườn tược cây trái.
Mới đầu,
người trong làng cứ tưởng ông Lê là người Tàu. Cho nên, họ hơi dè dặt. Chừng biết
ổng là người Việt Nam, họ cởi mở hơn, thân thiện hơn.. Làm như, đối với họ, người
Tàu là người ngoại quốc xa lạ, còn người Việt Nam thì ít nhiều gì cũng đã từng
được xem là người trong nhà ! Họ càng có cảm tình với ông Lê khi biết rằng ổng
qua Pháp học từ hồi mười lăm tuổi, rằng ổng tốt nghiệp trường Arts et Métiers,
rằng ổng làm chức lớn trong cơ quan Nhà Nước v.v.... Họ hay nói với nhau:
"Vợ chồng ông Lê thật dễ thương".
Vùng này
cao hơn mặt biển hai ba chục thước mà đất lại không lài lài xuống lần khi ra gần
biển như ở những nơi khác, nên không có bãi. Ở đây, biển đâm thẳng vô bờ, loại
bờ đá dựng thiên nhiên sừng sững như một bức tường cao thật cao. Những ngày biển
động, sóng đập vào chân tường đá nghe ầm ầm. Vì nhà ông Lê nằm cách bờ đá dựng
không xa, nên vào những ngày đó, từ trong nhà nghe âm vang tiếng sóng giống như
những tiếng thở dài.
Hè năm đó,
ông Lê và gia đình ra đây nghỉ mát chỉ có ba tuần thay vì một tháng như thường
lệ. Ông nói với ông Jean Marie -người quản gia- rằng phải trở về Paris để đón
cha mẹ từ Việt Nam qua. Ông Jean Marie hỏi ông có định đưa ông bà cụ ra đây
chơi không thì ông Lê trả lời rằng không, bởi vì ông bà cụ mới xuất ngoại lần đầu
tiên nên phải đợi một thời gian cho quen với khí hậu phong thổ.
Vậy mà chỉ
mươi ngày sau, thấy ông Lê chở ra đây một ông già tóc trắng với hai va-ly hành
trang. Người quản gia nghĩ: "Chắc định ở lâu nên mới mang hành trang nhiều
như vậy". Ông Lê giới thiệu: "Đây là cha tôi. Còn đây là Jean Marie,
quản gia". Sau đó, ông nói: "Trong thời gian cha tôi ở đây, tôi xin
nhờ bà Jean Marie lo dùm việc nấu nướng giặt giũ giống như những lúc gia đình
tôi ra đây nghỉ mát. Có điều là cha tôi không thể đi chợ ở Etretat như chúng
tôi vẫn làm lâu nay, nên tôi nhờ ông bà lo giùm luôn vụ này. Đổi lại, tôi sẽ
tăng tiền thù lao của hai ông bà lên mười phần trăm. Tôi xin ông bà chấp nhận
cho".
Sau khi gọi
điện thoại về nhà bàn tính với vợ, ông Jean Marie bằng lòng. Tiếp theo đó, ông
Lê trao cho ông Jean Marie một số tiền và nói: "Đây, tôi gởi ông bà một
tháng tiền chợ. Tôi dự trù dư dả phòng khi cha tôi cần mua những gì khác, nhưng
nếu thấy thiếu thì điện thoại cho tôi hay để tôi gởi ra thêm. Mỗi cuối tháng,
tôi sẽ gởi tiền để gối đầu cho tháng kế tiếp, ông bà yên tâm". Ông Jean
Marie hỏi: "Còn bà cụ đâu? Sao không cùng ra đây với ông cụ?". Ông Lê
trả lời như không trả lời: "Mẹ tôi ở Paris". Rồi sau khi nói mấy lời
cám ơn ông Jean Marie, ông bắt tay từ giả người quản gia và ông già tóc trắng để
trở về Paris, vội vã như không muốn vấn vương gì nữa ! Thấy ông Lê đối xử với
ông già tóc bạc như là một người quen thường, ông Jean Marie vừa ngạc nhiên vừa
bất nhẫn, bởi vì ông nhận thấy rõ ràng ông già tóc bạc đó và ông Lê thật sự giống
nhau như hai cha con.
Ông già ở
trong nhà ông Lê như một cái bóng. Ông không xem tê-lê, không nghe ra-đi-ô. Ông
cứ ngồi ở xa long hút thuốc liên miên, mắt nhìn thẳng ra cửa kiếng hướng về
phía biển, giống như đang coi một cái gì ở ngoài đó. Ở ngoài đó không có
gì hết ! Không có một cái cây, không có một lùm bụi. Cỏ dại cũng không mọc cao.
Mặt đất trống trơn chạy thẳng ra bờ đá dựng. Từ chỗ ông ngồi, nhìn ra chỉ thấy
đất và trời. Lâu lâu, vài con hải âu bay phớt ngang, và lâu lâu trên nền trời
trong xanh của mùa hè, một sợi mây đi lạc. Chỉ có bao nhiêu đó, vậy mà ông cứ
ngồi nhìn, nhìn đăm đăm.
Mới đầu,
ông bà Jean Marie cứ tưởng rằng ông già không biết nói tiếng Pháp. Nhưng sau mấy
lần hỏi han thấy ông trả lời trôi chảy mạch lạc, ông bà mới yên tâm. Có điều là
hỏi thì ông mới trả lời chớ không thấy bao giờ tự ông gợi chuyện. Suốt ngày,
ông làm thinh. Cần dùng gì thì ông viết ít chữ rồi gắn trên mặt tủ lạnh.
Ông bà Jean Marie thấy vậy cũng ráng giữ ý không làm tiếng động khi quét dọn
hay đi ra đi vào. Nhiều khi, họ có cảm tưởng như trong nhà không có ai hết ! Chỉ
có mùi khói thuốc là nhắc đến sự hiện diện của ông già.
Ông già đó
tên Lê Tư. Hồi thời trước -cái thời mà miền nam Việt Nam chưa biết mùi cộng sản-
ông Tư là một nhà thầu xây cất rất có bề thế ở Sàigòn. Ông giao du rộng, lại
"biết cách giao du", thêm giỏi tính toán sắp xếp nên ông trúng thầu
nhiều công trình lớn của Nhà Nuớc và của các công ty ngoại quốc. Do đó, càng
ngày ông càng nổi tiếng và sự nghiệp thì cứ nhân lên gấp năm gấp mười. Dù vậy,
ông không bao giờ chối bỏ cái gốc hàn vi của ông và rất tự hào đã bắt đầu bằng
hai bàn tay trắng.
Ông thường
nói: "Hồi tôi từ Đà Nẳng vô Sàigòn, tôi chỉ có một chiếc xe đạp cũ và cái
nghề thợ hồ. Ban ngày đạp xe đi làm, ban đêm đạp xe đi học thêm ở Trung Tâm Văn
Hoá Pháp và hội Việt Mỹ. Hồi thời đó, quanh năm suốt tháng, tôi chỉ biết có thắt
lưng buộc bụng, ăn uống kham khổ, để dành tiền gởi về cho cha mẹ ở Đà Nẵng và để
đóng các học phí. Vậy mà tôi vẫn không ngã lòng. Lúc nào trong đầu tôi cũng
nghĩ rằng phải cố gắng vương lên, bởi vì không ai giúp mình bằng mình hết. Nhờ
vậy mà bảy tám năm sau, tôi đã có một cơ sở vững chắc để cạnh tranh với các nhà
thầu khác. Rồi thì xây cất hết công trình này đến công trình khác, có khi hai
ba công trình cùng một lúc, cơ sở cứ lớn lần lớn lần để trở thành bề thế như
ngày hôm nay. Nghe tôi nói tôi bắt đầu sự nghiệp bằng con số không chẳng có mấy
ai tin hết".
Khi đã khá
giả, ông mới cưới vợ.. Ông hay nói đùa : "Tình phải có tiền đi theo nó mới
vững. Giống như bê-tông phải có cốt sắt nó mới bền !".
Ông bà Lê
Tư chỉ sanh có một người con trai đặt tên Lê Tuấn. Năm Tuấn được mười lăm tuổi,
ông gởi con qua Pháp học. Ông muốn nó học ngành kiều lộ để sau này trở về nối
nghiệp ông. Ông nói : "Việt Nam mình cạnh tranh không nổi với hãng thầu
ngoại quốc bởi vì mình có binh mà thiếu tướng". Và ông hy vọng trong tương
lai, con ông sẽ thực hiện những công trình vĩ đại, vượt trội hẳn những gì ông
đã làm. Để cho ông được nở mặt.
Cái tương
lai đó bỗng tắt ngúm chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày 30 tháng tư, 1975.
Trước
cái ngày đen tối đó, một người như ông Lê Tư dư sức để di tản dễ
dàng. Vậy mà không thấy ông nhúc nhích. Ông cứ điềm nhiên hút thuốc, uống trà,
xem truyền hình, nghe ra-đi-ô. Giống như một kẻ bàng quan. Bà Lê Tư thì cứ đi
ra đi vô, hết gọi điện thoại cho bà bạn này đến gọi cho bà bạn khác. Rồi thúc
giục ông đi di tản. Bà nói :
- Trời ơi !
Mấy bả đi hết rồi kìa !
Ông cười :
- Thì ai sợ
cứ đi. Bà yên tâm. Tôi bảo đảm không có sao hết. Nói thiệt với bà, "họ"
đã liên lạc với tôi cách đây hơn tháng, nói rõ rằng họ cần dùng những người như
tôi để xây dựng lại đất nước. Cho nên, bà thấy tôi không ? Tôi bình chân như vại
!
Điều mà ông
không nói cho bà biết là từ bao lâu nay, ông vẫn đều đặn gởi tiền giúp cách mạng
qua ngả thằng cháu -cũng gốc liên khu năm như ông- đang hoạt động ở mấy tỉnh miền
Đông. Chính người cháu đó đã cho người về gặp ông để giải thích rõ ràng chủ
trương đường lối của cách mạng. Nhờ vậy, ông mới vững tâm tin tưởng.
Đâu dè, sau
khi cách mạng "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", cách mạng quay về
đánh tư sản. Ông Lê Tư cũng "bị" mời đi "làm việc" như mọi
người. Ông có xuất trình giấy chứng minh của Liên khu bảy, là vùng ông đã giúp
đỡ, nhưng "lá bùa" đó không linh ! Ông cũng nghĩ đến thằng
cháu cách mạng, nhưng bây giờ ông không biết nó ở đâu để gọi nó đến làm chứng.
Vì vậy, ông vẫn bị mời tới mời lui để "làm việc". Mỗi lần làm
việc, họ quay ông như con dế ! Đến nỗi về sau, mệt mỏi
quá, chán chường quá, thấy nói gì cũng vô ích, nên ông bèn làm thinh, mặc cho họ
muốn nói gì thì nói, hỏi gì thì hỏi. Rồi đến lần "làm việc" cuối
cùng, ông cũng làm thinh ký tên trên xấp giấy tờ họ đưa ra, ông ký mà không
thèm đọc qua một chữ ! Lần đó, ông bước ra khỏi cơ quan, có cảm tưởng như đang
sống trong một thế giới khác, một thế giới lộn ngược ! Ông không còn khái niệm
không gian thời gian. Ông chỉ biết rằng sau cái phút ký tên đó, ông trắng tay.
Và ông còn nghe trong đầu câu nói ơn nghĩa "nhờ ông đã sớm giác ngộ cách mạng
nên không phải đi cải tạo". Ông lái xe về nhà như một người máy. Ông đâu
biết rằng trong cuộc "đổi đời vĩ đại" này, con người đâu còn sống bằng
lý trí : con người chỉ sống bằng bản năng thôi !
Về đến trước
cổng nhà, bỗng nhiên ông Lê Tư nhận thức rằng tất cả những gì trực thuộc về ông
bây giờ chỉ còn lại người vợ đang đợi ông ở nhà.
Xưa nay, mọi
việc trong gia đình đều do ông quyết định. Bà Lê Tư luôn luôn làm theo ý của
ông, không bao giờ thắc mắc. Bởi vì bà hoàn toàn tin tưởng vào người chồng mà
lúc nào bà cũng cảm phục như một thần tượng. Bà nói : "Từ bàn tay trắng dựng
nên sự nghiệp đồ sộ như vầy, không phải ai làm cũng được !". Và bà thường
ví chồng bà như một cây cau vững chắc để bà bám vào đó như một giây trầu. Vậy
mà bây giờ Ông Lê Tư không biết ví mình như cái gì nữa. Cách mạng mà ông đã
giúp từ ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con
số không. Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một
bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì ! Chỉ trong có
một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng không là gì hết !
Ông đã trở thành một "thứ gì" đó không có tên, một sản phẩm của cách
mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa !
Ông bước
vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ được gì hết, kể cả
làm chủ chính bản thân mình ! Cái biệt thự có hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy
nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng với địa vị xã hội của ông bây giờ
bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên..
Nhà vắng teo.
Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động, số còn lại đã được cho
nghỉ ngay sau ngày 30 tháng tư. Bà Lê Tư chắc đang làm gì ở dải nhà sau nên ông
không nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra
vườn. Ông nhìn mà không thấy gì hết ! Yên lặng.
Tiếng bà Lê
Tư làm ông giựt mình :
- Sao ông ?
Họ đòi gì nữa vậy ?
- Họ đâu có
đòi. Họ lấy.
- Lấy gì ?
- Lấy hết
tài sản của mình.
Giọng bà bỗng
cao lên một nấc :
- Lấy hết
tài sản ?
Ông nhìn bà
rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc :
- Gì lạ vậy
? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải
lấy ! Rồi ông trả lời làm sao ?
Ông thở mấy
hơi thuốc, rồi mới nói :
- Thì tôi
giao hết lại cho họ chớ còn làm sao ?
Bà chỉ kêu
được một tiếng "Trời !" rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn thẳng ra
vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết ! Yên lặng. Một lúc sau, ông nói, giọng
thật trầm tĩnh :
- Bà nghĩ
coi. Bây giờ họ là kẻ chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn
nói gì làm gì mà không được..
- Còn luật
pháp để đâu ?
- Luật pháp
của ai ?
Bà làm
thinh. Một lúc sau, bà nói :
- Hôm trước
ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây
giờ họ lột hết của ông vậy ?
Ông làm
thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng. Ông nghe thèm một hớp trà
hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào cũng được để ông nuốt xuống
"cái gì đó" đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi điếu thuốc rồi đi lại bar ở
góc xa-long rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống như người ta bị mắc
xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng
trên mũi, nhưng sao khói thuốc vẫn còn nghe thật đắng !
Giọng bà Lê
Tư có vẻ trách móc :
- Chớ phải
ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao.
- Đi di tản
cũng mất hết chớ hơn gì.
- Sao mất hết
được ? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ đem đi theo à ? Có nhiều người
còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa. Như anh X., như anh T., như ông tướng
Z toàn là bạn thân của ông không.
Ông làm
thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt :
- Thà rằng
mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những
gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông để lấy, bộ
ông không thấy tức sao ?
Ông làm
thinh. Ngừng một lúc như để suy nghĩ, rồi bà nói một câu giống như bà đóng sập
cánh cửa sắt để nhốt ông trong một nhà tù :
- Chẳng bằng
ông muốn ở lại để giúp cách mạng chớ gì ? Phải không ?
Ông nuốt nước
miếng mấy lần, rồi tiếp tục làm thinh. Bây giờ, ông thật sự thấy mình như bọt nước
trôi lêu bêu, không bám được vào đâu hết?
Chiều bữa
đó, cách mạng đưa đến mười mấy thanh niên trai gái và một toán bảo vệ cầm súng
để làm công tác kiểm kê. Họ bắt mở hết các hộc, các kệ, các tủ để họ đem ra đếm
từng món, không bỏ sót một nơi nào hết, một món nào hết. Đêm, họ
ngủ lại trong nhà ông Lê Tư để sáng sớm hôm sau họ tiếp tục. Xong công tác kiểm
kê, người cán bộ chỉ huy chỉ định một nhóm bốn người ở lại để canh giữ những gì
đã kiểm kê, sợ ông bà Lê Tư ăn cắp mang đi ! Gã còn nói như ra lịnh :
- Từ hôm
nay trở đi, anh chị phải dọn ra nhà sau để ở, không được bước lên đây nữa. Anh
chị cũng không được quyền sử dụng chiếc ô-tô bây giờ thuộc diện quản lý của Nhà
Nước. Khi ra vào nhà, anh chị phải dùng cái cổng hậu, không được đi bằng cổng
chánh. Rõ chớ ?
Ông Lê Tư
làm thinh. Bà Lê Tư cũng làm thinh. Nhưng hai sự làm thinh đó không cùng một ý
nghĩa : ông làm thinh vì biết rằng có nói gì cũng vô ích còn bà làm thinh là vì
bà hận ông vô cùng !
Từ ngày dọn
xuống ở trong một nhà phụ -có ba dải nhà phụ trước đây dùng cho gia nhân- và từ
ngày biết rằng văn phòng, các kho vật liệu, kho dụng cụ cơ giới, biệt thự ở Núi
Lớn Vũng Tàu, các chương mục ở ngân hàng?v.v. đã hoàn toàn nằm trong tay Nhà Nước,
bà Lê Tư ít nói chuyện với ông. Nhưng hầu như ngày nào bà cũng ngồi nói một
mình, nói trổng, cố tình nói lớn tiếng để cho ông "phải" nghe. Bà cứ
lải nhải với giọng trách móc chanh chua, hết chuyện tin lời cách mạng, đến chuyện
mất hết của cải, rồi bắt qua chuyện di tản, chuyện ở "chui rút" trong
nhà của bếp của bồi. Còn ông thì cứ làm thinh ngồi nghe, nghe riết mà tóc của
ông càng ngày càng bạc trắng !
Thời gian
đi qua. Một hôm bà bỗng nói với ông :
- Tôi đã nhờ
người quen trong toà đại sứ liên lạc được với thằng Tuấn ở Paris. Nó sẽ lo giấy
tờ cho mình qua bển.
Bây giờ, mọi
sự đều do bà quyết định, ông chỉ làm thinh đi theo. Bây giờ, người chồng
"thần tượng" của thời trước chỉ còn là một cái bóng ! Bây giờ, bà mới
là thân cây cau, còn ông, ông chỉ là một thứ giây trầu... Đúng là một sự
"đổi đời vĩ đại" !
Ít lâu sau,
chính bà đã chạy chọt đút lót để có xuất cảnh cho hai vợ chồng
bay qua Paris, vào giữa mùa hè năm đó.
*Ông Lê,
người con trai của ông bà Lê Tư, đến đón ông bà ở phi trường Charles De Gaulle.
Gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi. Ông Lê Tư có cảm tưởng như mình vừa sống lại.
Ông ôm con siết mạnh, rồi buông ra để nhìn. Lòng tràn sung sướng, ông vừa cung
tay đấm nhẹ lên vai con, vừa chửi đổng : "Cha mày !". Rồi tiếp :
"Ba tưởng không còn gặp lại con nữa chớ !" Trong một khoảnh khắc, ông
tìm lại được lời nói và cử chỉ của một con người bình thường, con người của thời
trước tháng tư 1975.
Trên đường
về nhà, ông Lê vừa lái xe vừa hỏi về những chuyện đã xảy ra ở Việt Nam trong những
ngày sôi động của tháng tư, nhứt là ở đoạn "mấy thằng Mỹ kéo nhau chạy sút
quần". Nghe lời nói và giọng điệu của con, ông Lê Tư cảm thấy có "cái
gì không ổn", nhưng ông nghĩ : "Có lẽ tại nó ở bên nây lâu quá nên nó
nói tiếng Việt không biết chọn lời". Rồi ông kể lại những gì mắt thấy tai
nghe. Người con lâu lâu khoái chí, vỗ tay lên tay lái, gục gặc đầu "cho tụi
nó chết".
Bổng
người con hỏi :
- Còn
mấy thằng tướng nguỵ ?
Câu hỏi
đó như ánh sáng bật lên trong bóng tối để ông nhìn thấy rõ sự thật: không phải
con ông không nói rành tiếng Việt mà là con ông nghiêng về phía bên kia, cái
phía đã lật lọng, ăn cháo đá bát, cái phía đã lấy hết tài sản của ông một cách
ngang nhiên trắng trợn ! Trời đất chung quanh bỗng như sụp xuống ! Tuy nhiên
ông vẫn trả lời:
- Mấy người
đó thì ba không biết.
- Tụi nó chạy
ra đảo Guam hết. Thằng chủ chạy thì thằng tớ phải chạy theo chớ dám ở lại đâu.
Tưởng ba biết gì kể lại nghe chơi chớ ở bên nây báo chí tê-lê nói đầy đủ. Trên
tê-lê thấy nhiều thằng tướng ngơ ngác như bầy gà nuốt giây thun !
Người con
nói xong cười lên khoái trá. Ông Lê Tư nghe giận phừng lên mặt ! Ông đưa tay định
xáng cho thằng con một cái, nhưng ông kềm lại kịp. Ông bỏ tay xuống mà nghe ngực
mình tức ran. Tự nhiên, ông ứa nước mắt. Từ phút đó, ông làm thinh. Thấy như vậy,
tưởng cha bị mệt vì cuộc hành trình quá dài nên ông Lê cũng không hỏi tiếp.
Bà Lê Tư ngồi
ở băng sau, không chen vô một lời. Bà cảm thấy rồi đây sẽ không thể nào ở chung
với một thằng con như vậy được. Bà đã tưởng đi ra khỏi xứ để khỏi phải thấy hằng
ngày những chuyện trái tai gai mắt, nào ngờ qua đây gặp thằng con không biết học
ở đâu mà ăn nói giống "tụi nó" y chang ! Nhưng không sao. Rồi bà sẽ
mua nhà ở riêng. Bà dư sức. Với số hột xoàn mà bà đã cất giấu sau 1975 và bây
giờ đang nằm an toàn trong cái giỏ mây hai đáy bà ôm trong lòng, bà dư sức. Cho
dù bà phải cưu mang suốt phần đời còn lại ông chồng mà bà đã không còn coi
là thần tượng nữa, từ lâu.
Về đến nhà
-ở Neuilly Sur Seine, khu nhà giàu- ông Lê giới thiệu vợ con rồi đưa cha mẹ lên
phòng trên lầu, nói :
- Ba má nghỉ
một chút rồi xuống ăn trưa.
Bữa ăn được
dọn lên từng món theo phong cách tây phương. Vợ ông Lê hỏi han lễ độ và kín đáo
chăm sóc ông bà Lê Tư. Hai thằng con ông Lê -giống mẹ hơn giống cha nên ít thấy
lai Việt- không biết một tiếng Việt. Chúng ăn nhanh nhanh. Xong món thứ nhì,
chúng không đợi món kế tiếp, vội vã rút lên phòng. Suốt bữa ăn, câu chuyện chỉ
vây quanh mấy món ăn nấu theo tây, bởi vì ông Lê khoe có bà bếp giỏi.. Bà bếp,
người Pháp, có bước ra chào ông bà Lê Tư.
Nhờ vậy,
không khí trong bữa ăn không đến nỗi nào tẻ lạnh.
Sau bữa ăn,
vợ ông Lê vì tế nhị, muốn để cho chồng và cha mẹ nói chuyện riêng với nhau, nên
xin phép lên lầu. Bà dặn chồng :
- Anh không
nên nói chuyện nhiều. Ba má chắc cần phải ngủ vì sai giờ giấc. Mình còn nhiều
thì giờ mà.
Khi bước
qua xa long để uống cà phê, ông Lê hỏi :
- Ba má định
qua đây ở chơi bao lâu ?
Ông Lê Tư
châu mày, nhìn bà. Bà trả lời :
- Ba má định
qua ở luôn chớ đâu phải ở chơi.
Người con
ngạc nhiên :
- Ủa ? Sao
lại ở luôn ? Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên đầu
trên cổ mình hết. Tất cả đều thuộc về mình, không còn sợ thằng ác ôn nào cướp
giựt nữa. Như vậy mà ba má định bỏ xứ qua đây ở luôn. Thiệt là vô lý !
Hồi nãy,
trên xe về đây, ông Lê Tư còn nghĩ rằng thằng con ông chỉ nghiêng về phía bên
kia. Bây giờ thì quá rõ ràng : nó đã đứng hẳn về phía bên đó. Ông nghe lòng quặn
thắt : chẳng những cách mạng đã cướp hết tài sản của ông, mà tụi nó
còn cướp luôn thằng con duy nhứt của ông, cướp từ hồi nào rồi.
Ông Lê Tư
làm thinh. Bà Lê Tư hơi mất bình tĩnh :
- Tại con
không biết. Tụi nó lấy hết tài sản của ba má rồi còn đuổi xuống ở căn nhà của bồi,
rồi lại bắt không được đi cổng chánh phải đi cổng hậu. Bây giờ tụi nó sợ mình
không chấp hành chỉ thị nên kéo kẽm gai cô lập căn nhà ba má ở. Con nghĩ coi sống
làm sao ?
- Buổi đầu
lúc nào chẳng có chuyện sai sót. Rồi cách mạng sẽ trả lại hết cho ba má, yên
tâm đi ! Điều mà con muốn nói là chưa chi mà ba má đã muốn bỏ xứ ra đi giống
như bè lũ đĩ điếm trộm cắp tháo chạy mấy ngày trước giải phóng làm con thấy
không hãnh diện chút nào hết !
Câu nói
chưa dứt, ông Lê Tư đã đứng phắt dậy, làm thinh đi thẳng lên lầu. Bà Lê Tư cũng
nối gót, nhưng bước chân bà nặng chình chịch. Đứa con máu mủ mà bà mới ôm hun
thắm thiết hồi nãy trên phi trường, bây giờ bỗng giống như người xa lạ. Bà cảm
thấy hụt hẫng đến độ bà không biết phải làm gì, nói gì. Đến giữa cầu thang, kềm
không được, bà ôm mặt khóc tức tưởi.
Suốt buổi
chiều, ông Lê Tư ngồi trong phòng làm thinh hút thuốc. Ông không thấy buồn ngủ,
ông chỉ thấy mệt - thật mệt - và chán chường - thật chán chường. Ông bắt gặp lại
tâm trạng của ông vào những ngày cuối cùng của thời ông bị cách mạng quay hằng
bữa để ông kê khai tài sản một cách "đầy đủ và trung thực" !
Bà Lê Tư
cũng không ngủ. Bà điện thoại để liên lạc mấy bà bạn đã định cư ở Pháp, nhứt là
ở vùng phụ cận Paris. Rồi bà hẹn hò. Sung sướng như thấy chân trời đang mở rộng.
Sau bữa ăn
tối, đợi bà Lê và hai con lên lầu, bà Lê Tư nói :
- Chị bác
sĩ A sáng mai lại rước má về nhà chỉ chơi vài bữa. Sau đó, có lẽ sẽ qua nhà bà
dược sĩ L. Ở đây, má có nhiều bạn bè lắm, con đừng lo cho má. Con chỉ cần lo
cho ba thôi.
Ông Lê Tư
nhìn thẳng mặt con, giọng nghiêm trang :
- Ba nói thật
: ba với con không hạp nhau. Ba không thể ở chung với con được. Ba xin con cho
ba ở một nơi nào khác, ở một mình cũng không sao..
Ông nói
"xin con cho ba", đó là sự thật. Bởi vì bây giờ ông hoàn toàn trắng
tay. Xưa nay, tiền dư ra, ông cho bà một phần để mua hột xoàn, còn bao nhiêu
ông chuyển hết qua chương mục của người con.
Ông Lê ngồi
làm thinh, không biết ông đang nghĩ gì. Cũng là làm thinh, nhưng sự làm thinh của
ông khó hiểu hơn sự làm thinh của ông bà Lê Tư !
Vậy rồi
sáng hôm sau, bà bác sĩ A lái xe lại rước bà Lê Tư.. Tiếp theo là ông Lê chở
người cha ra ở cái nhà nghỉ mát ở gần bờ đá dựng. Suốt cuộc hành trình dài mấy
tiếng đồng hồ, hai cha con không nói với nhau một lời !
Từ ngày ra
đây ở, ông Lê Tư cảm thấy cuộc đời mình như đang đi vào một ngõ bí. Không sống
được với cách mạng, đã đành. Còn lại bà vợ thì bây giờ bả coi mình như cục bứu
trên lưng. Rồi đến thằng con, đối với mình, nó còn lạ hơn người xa lạ ! Cứ nghĩ
quẩn nghĩ quanh như vậy hết ngày này qua ngày khác mà con người ông sa sút thấy
rõ. Bây giờ, ông ốm nhom. Đi đứng đã phải chống ba-toon và đêm đêm cứ phải nằm
trằng trọc tới khuya lơ mới dỗ được giấc ngủ. Thấy tội nghiệp, ông bà Jean
Marie hay thừa dịp đưa nước trà hay cà phê để ngồi lại gợi chuyện vẩn vơ. Họ
cũng ngạc nhiên tự hỏi sao không thấy ai gọi điện thoại hỏi thăm ông già này hết.
Làm như ông không có mặt trong cuộc đời này. Cho nên họ tận tình chăm sóc ông từng
chút. Đến nỗi, về đêm, bà Jean Marie thường đợi ông lên giường nằm đàng hoàng mới
tắt đèn đóng cửa đi về nhà ! Ông Lê Tư rất cảm kích nên lâu lâu ông phá lệ làm
thinh để nói hai tiếng "cám ơn", nhẹ như hơi thở.
Một hôm,
ông Lê Tư bỗng thèm nhìn mặt biển, cái biển mà từ hôm ra đây -đã gần hai tháng-
ông chỉ nghe tiếng của nó rì rào ngoài kia thôi. Ông bèn chống ba-toon bước từng
bước run run đi lần ra hướng đó. Cứ đi vài bước là ông phải dừng lại một lúc để
thở, nhưng ông vẫn cố bước đi.
Bây giờ thì
ông đã đứng trên mép bờ đá dựng. Dưới chân ông, rất sâu phía dưới, là biển. Biển
xanh dờn, kéo dài ra chân trời. Trời nước mênh mông. Gió muối và mùi thơm thơm
của rong rêu nhắc ông nhớ cái biệt thự ở mỏm núi lớn Vũng Tàu. Ông đã xây cất
biệt thự đó để làm nơi tiếp tân nên có một sân gạch thật rộng hướng về phía biển.
Ông hay đứng ở đó nhìn chân trời như ông đang đứng nhìn chân trời bây giờ. Cũng
trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang. Hồi đó, lúc nào ông cũng thấy chân
trời đang mở rộng cho ông, cái hồi mà ông làm chuyện gì cũng thành đạt. Bây giờ,
cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang nhưng sao ông không thấy nó mở
rộng cho ông một chút nào hết ! Ông chỉ thấy toàn là bế tắt. Chân trời là đường
chấm dứt một cái gì : trời cao nghiêng xuống đến đó là hết, biển rộng vươn dài
đến đó cũng là hết ! Giống như cuộc đời của ông bây giờ. Của cải: hết ! Vợ con:
hết ! Sức khoẻ của ông rồi cũng sẽ hết ! Hết ! Hết !
Bỗng, ông
Lê Tư liệng mạnh cây ba-toon xuống biển, giống như ông dứt khoát không cần dùng
đến nó nữa. Rồi ông hít một hơi dài, nhắm mắt bước thẳng vào khoảng
không trước mặt, giống như bước qua một lằn ranh tưởng tượng.
Từ bây giờ,
ông Lê Tư làm thinh vĩnh viễn.
Chiều hôm
đó, ông Jean Marie gọi điện thoại về Paris. Không có người bắt máy, nhưng có
máy nhắn tin nên ông nhắn : "A lô ! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn
: ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển. Nhà
chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra
gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn".
Tiểu Tử