Năm ấy, ông cùng hai người bạn Đức đi thăm lại thành phố
sinh quán.
"Em đang bệnh nặng, muốn gặp mặt anh … có lẽ lần cuối
…", giọng em gái ông nghẹn ngào qua điện thoại vài tuần trước.
Tháng mười, cơn mưa cuối mùa rớt xuống Sài gòn. Mưa đêm lất
phất trên đường đến khách sạn nằm trong hẻm phố tây Phạm Ngũ Lão. Tâm tư ông
váng vất những ký ức chưa phai. Thành phố thay đổi nhiều. Ông hỏi thăm người
tài xế những tên đường thuở trước. Anh còn nhớ. Trương Minh Giảng. Công Lý. Hồng
Thập Tự. Lê văn Duyệt. Dòng hồi tưởng ông bật thức, quắt quay những hình bóng
cũ.
Mười chín tuổi, ông đã rời quê hương, trong thời chiến. Từ
đó đến nay, ông chỉ về thăm nhà một lần duy nhất. Sáu tuần lễ hè một chín bảy
ba. Sau hiệp định Paris.
Khuya ấy, ông nằm trăn trở. Chợp sáng, phố xá đã khua thức.
Tiếng rao hàng từ lòng hẻm vẳng lên. Phải chú tâm vài phút, ông mới nghe ra.
"Bánh mi ì… nóng giòn… đây." "Bánh khu.. úc…, bánh gio.. ò… nóng
đây." Bữa điểm tâm đầu tiên trong khách sạn, ông gọi một tô phở bò và một
ly cà phê sữa đá. Phở không ngon. Mỗi ly cà phê sữa còn đậm đà hương quê quán.
Lát sau, người anh tới chở ông về nhà em gái. Dọc đường, anh chở ông ghé ngang
ngôi nhà cũ phố Tân Định. Những con đường ở đây vẫn còn giữ tên những danh tướng
đời nhà Trần. Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Đặng Dung, Đặng Tất, Trần Quí
Khoách.
Ngôi nhà niên thiếu của ông ở đường Đặng Tất, giờ đã đổi chủ.
Người chủ mới đã đốn mất cây trứng cá bên cửa ra vào. Nhà hàng xóm được sửa đổi
thành một quán cơm cao cấp.
Tâm trí ông, trong khoảnh khắc, ngoi dậy lớp lớp kỷ niệm.
Những giấc mơ đêm trăng sáng, ma quái tàn ổi chập chờn đỉnh
mùng. Những chủ nhật đi Cấp tắm biển, rạo rực không yên. Chồng dĩa nhạc vọng cổ
nặng trịch bảy mươi lăm vòng. Những sáng mùng một, tóc xức bi-dăng-tin, áo mới,
tràng pháo đầunăm, tiền mừng tuổi, ván bài xì dách trải chiếu ngoài sân gạch,
dưới tàn mận hồng đào, mặt mày bí rị, "mới mười lăm tuổi đã lấy tây".
Những năm tiểu học, làm biếng, thi vô trường công rớt hai lần. Bắt chước các chị,
chép và hát nhạc tình Boléro. Tối tối đi coi chiếu bóng với ba má tại mấy rạp gần
nhà. Modern, Kinh thành, Casino Đa kao, Văn hoa. Về, ghé chợ ăn sâm bửu lượng
hay mì hoành thánh đình Phú Hoà. Chiếc xe đạp đầu tiên. Những ca khúc ngoại quốc
thời danh thập niên sáu mươi. Bài thơ búp bê đầu tay đăng trong nhật báo Sống.
Nỗi buồn day dứt sau cái chết bất ngờ của người bạn văn chương đầu đời. Một đêm
mưa, thèm khát vu vơ, lái xe gắn máy ra Tự do, mua một bao Capstan, xoè diêm điếu
thuốc dậy thì, đầu óc choáng váng, dụi tắt. Những tối giáng sinh đi nhảy đầm lậu
với đám bạn trường tây. Tập tành đọc tiểu thuyết người lớn. Đôi khi tự hỏi về
giới hạn của ý nghĩ. Tâm tư vướng bận nhiều tư tưởng bi luỵ.
Đầu trưa, người anh lái xe gắn máy tới chở ông tới thăm gia
đình em gái. Nhà em nằm trong một chúng cư bình dân ở Bình Thạnh. Cùng em xem lại
xấp ảnh lưu niệm. Ảnh đen trắng nhạt màu thuốc rửa ghi lại những chuyến du ngoạn
ấu thời. Nha trang, Đà lạt, Vũng tàu. Anh em ông nhắc lại những người bạn tuổi
nhỏ. Giờ, sau những biến động thời cuộc, không biết lưu lạc nơi đâu, còn sống
hay đã chết?
Em thủ thỉ kể chuyện thời đi học. Ngày ngày, ông và em tới
trường bằng chiếc Suzuki nữ. Đoạn đường từ nhà tới trường và ngược lại còn rõ
nét trong trí nhớ. Ra Trần Quang Khải, quẹo phải Trần văn Thạch, rẽ trái Hai Bà
Trưng, tới đèn xanh đèn đỏ quẹo phải Hiền Vương, chạy thêm quãng ngắn, tới cây
xăng, quẹo trái Duy Tân, ôm nửa vòng hồ con rùa, chạy tới Hồng Thập Tự quẹo phải,
và quẹo trái Bùi Chu là tới.
Anh em nhỏ nhẻ tâm tình chuyện quá khứ. Chiều mát, cả nhà tới
chùa Vạn Thọ thắp nhang khấn vái vong linh ba má.
Một sáng, ông thức sớm, từ khách sạn tản bộ một mình ra Bùi
Viện, chụp ảnh cảnh sinh hoạt đường phố. Ghé mua một phần xôi bắp. Đi hết Cống
Quỳnh, thấy trên vỉa hè phố có người đàn bà lớn tuổi ngồi đong sữa đậu nành vô
bịch. Hương lá dứa thơm lừng góc phố. Ông sà lại hỏi thăm, chuyện trò vu vơ
chuyện mưa nắng. Sau khi biết ông là người nước ngoài về thăm, bà kể lể bộc trực
những biến động thời thế sau một chín bảy lăm. Trước khi từ giã, ông mua vài bịch
đem về. Dọc đường ghé lại ăn một dĩa bánh ướt chả lụa như đã hứa mới nãy với cô
chủ quán. Không thấy ngon như ngày xưa. Cả món xôi bắp, mùi vị cũng không giống
trước. Ông chợt nhận ra ý nghĩa triết lý ẩm thực của Tản Đà tiên sinh: chỗ ăn
cũng phải ngon.
Những thay đổi từ từ rõ nét trong ý thức ông. Không phải chỉ
riêng thị hay thính giác, mà ngay cả khứu và vị giác cùng cảm xúc. Tất cả, đã
không còn như xưa.
Chuyến đi thăm nhà đầu tiên của ông vỏn vẹn mười ngày. Nửa
năm sau, bệnh tình em gái ông trở nặng, phải vào nằm viện. Ông điện thoại nói
chuyện với em. Giọng em yếu, không mấy tỉnh táo. Đường dây viễn liên xấu, anh
em ông không nói chuyện được lâu. Em lặp đi lặp lại, muốn ông về nhìn mặt lần
cuối. Ông bảo em chờ tới hè, được nghỉ, ông sẽ về. Cố chờ nghe em! Cố chờ! Anh
về. Giọng ông thảng thốt, ngôn ngữ lạc lõng vào không gian vô tận, trong xích mắc
những hợp tan của kiếp người.
Em không chờ được, từ giã cõi đời vài tuần sau đó.
Một năm sau, ông thấy mình trở lại. Bi kịch lần này là cái
chết bất ngờ của người em rể, chồng cô em gái lìa đời nửa năm trước. Chú em ra
đi, một ngày sau ngày ông tới. Lần đầu tiên trong đời, ông tham dự và chứng kiến
nghi thức ma chay hiện đại. Ban đạo tỳ tụng kinh, xướng lễ nhiều ngày liên tiếp.
Thân nhân, bạn bè tới chia buồn, phúng điếu. Nhiều người ở lại canh quan tài
qua đêm. Ăn uống, đánh bạc giải khuây, đôi khi lớn tiếng. Hôm đưa quan tài đi
thiêu, ban nhạc đạo tỳ đàn hát nhạc nam xen kẽ nhạc mới. Tro cốt chú em được
đem vào chùa Vạn Thọ bên kinh Nhiêu Lộc, trú chung với ba má và em gái
ông.
Sau những tai ương dồn dập, nhịp sống gia đình đứa cháu trai
cũng từ từ vào nếp. Ban ngày, vợ chồng cháu đi làm, người anh chở ông thăm thú
quẩn quanh. Thăm lại những góc phố quen, những quán ăn ngày xưa. Thương xá Eden
đã bị đập phá, xây mới. Không còn Givral, La Pagode, Xuân Thu. Hai hàng me cổ
thụ được ân xá, đang thoi thóp chút dưỡng khí ô nhiễm khói xe gắn máy giờ tan tầm.
Ông hỏi thăm anh quán cháo cá Chợ cũ ở đường Tôn Thất Đạm. Đóng cửa lâu rồi,
anh đáp. Không dưng ông buồn man mác. Và bật nhớ da diết. Cái quán thuở nào ba
má thường dẫn cả nhà tới ăn món cháo cá Quảng Đông cực kỳ khoái khẩu ...
Ông tìm tòi đọc lại một đoạn sách cũ:
"Một tô 'bột gạo nát nấu thật nhừ', thả vào một mớ
đu đủ ngâm nước cam thảo, gừng xắt vụn, ít lá hành, ít bụi tiêu cà, đĩa cá tươi
để riêng đặt trên ăn bàn chờ khách tự tay cho cá vào tô, muốn ăn tái hay thật
chín tuỳ sở thích, giá một cắc bạc (0$10) thời đó; khách nào muốn ăn thêm cá, gọi
thêm một đĩa tính bốn xu (0$04), kẻ nào muốn ăn sang, gọi một tô cá trộn gỏi
riêng, giá mười xu (0$10), muốn dằn bụng thật no, kêu thêm bánh 'dầu cha quảy',
mỗi cái bánh một xu (0$01), vị chi xài chưa tới một cắc ngoài, mà vừa xong một
bữa vĩ vèo, vừa nhẹ nhàng thơ thới, lại thêm bổ khỏe."(*)
Ông chợt nhận ra, ông giống cha ở vài điểm: thích ăn cháo,
và viết.
Bữa nọ, ông theo vợ chồng người anh Ba, mang danh Việt kiều
Mỹ, về quê ngoại Vĩnh Long thăm bà con. Cầu Mỹ Thuận đã được xây xong. Nói theo
ngôn ngữ hiện đại, trông "hoành tráng" như một xứ tân tiến. Thăm bà
con xong xuôi, anh Ba mướn một ghe máy chở đoàn gia đình đi thăm những nơi làm
bánh kẹo, vườn trồng mít, và được thưởng thức màn đờn ca tài tử Nam bộ.
Đã hơn bốn mươi năm, tôi mới có dịp nghe lại người miền Tây
ca diễn cổ nhạc. Lại nhớ. Nhớ quay quắt dĩa nhạc vọng cổ "Trái gùi Bến
Cát" qua tiếng hát của nghệ sĩ Thanh Sơn. Nhớ luôn những Ngọc Ánh, Lệ Liễu,
Thanh Hương, Út Bạch Lan, Út Trà Ôn, Hữu Phước. Nhớ những đêm theo má và hai bà
ngoại, một ruột một nuôi, đi coi cải lương. Tuồng "Người Vợ Không Bao Giờ
Cưới", tuồng "Nửa Đời Hương Phấn" của đoàn Thanh Minh Thanh Nga.
Mấy tuồng phỏng theo phim truyện thần thoại Ấn độ của đoàn Hoài Dung Hoài Mỹ.
Đôi lúc, vãn tuồng, cả nhà đi xích lô máy về nhà, ông được ngồi dưới sàn xe,
thú vị vô cùng.
Đôi nam nữ trung niên ca diễn bài vọng cổ. Người phụ nữ mặc
áo bà ba hoa hoè, quần sa-teng đen, điểm trang còn vụng. Giọng cô lanh lảnh,
ngân rảy không mượt mà như đào hát Sài gòn, nhưng không hiểu sao, ông cảm động.
Trời ơi, giọng hát, tiếng đàn của ấu thời đây mà! Ông kêu thầm, chậm rãi gắn
kính mát lên mắt, che khoé lệ ứa.
Trong chuyến đi thăm quê nhà lần thứ ba, ông có hẹn trước với
vợ chồng anh Ba Việt kiều Mỹ, sẽ ra Đà nẵng, Hội an, Huế chơi vài ngày. Cư dân
thành phố Đà nẵng năm ấy đang xôn xao về tình trạng sức khoẻ của ông Nguyễn Bá
Thanh đang được điều trị tại Hoa kỳ. Đà nẵng trong mắt ông, trong năm ngày lưu
lại, là một thành phố đang được hiện đại hoá. Năm cây cầu bắc ngang sông Hàn đã
được xây xong. Duy nhất một chiếc cầu sắt xây trước một chín bảy lăm còn được
lưu giữ làm di tích cổ. Đêm buông, những chiếc cầu treo thắp đèn, đổi màu rực rỡ,
bắt mắt như những hoạ phẩm trang trí made in China. Những chiếc du thuyền và
nhà hàng nổi lướt chậm trên mặt sông đen quánh. Nhà cửa hai bên đường soi bóng
loè nhoè lên mặt nước. Quang cảnh trông giống mô hình một phố cảng nào đó, ông
đã xem trong truyền hình. Hương Cảng? Hay Thượng Hải? Lặp lại đồng dạng. Như thể
"sao y bản chính". Tự dưng ông cảm thấy chua xót. Như tối qua, tình cờ
ghé ngang một sòng bạc của Trung quốc xây ven bãi Mỹ Khê, biết ra, khách Việt
không được phép bén mảng.
Hôm trước, có cơn bão quét ngang. Thời tiết mưa nắng bất chợt.
Tới ngày đi chơi cù lao Chàm, bão lắng. Hòn đảo vắng, thưa thớt dân cư. Ngôi
chùa nghèo trơ vơ giữa ruộng đồng trưa nắng. Ghé lại giây lát, thắp nhang, cúng
dường, uống một tách trà, chuyện vãn vu vơ với nhà sư trú trì. Trong chốc lát,
lòng trần lắng xuống thanh thản như bãi cỏ non, như con trâu nằm nhai cỏ ngoài
kia.
Phố cổ Hội an về đêm, những tháng đầu năm, tương đối ít du
khách. Tiết trời dễ chịu. Không quá náo nhiệt. Không thấy ai kèo nài mua vé số.
Không có cảnh xe gắn máy lèn lách luông tuồng. Khách du lịch đủ màu da, ngôn ngữ,
dạo thong dong trong những ngõ hẹp đèn vàng, ngồi thơi thả trong quán xá tù mù
đèn lồng. Chùa Cầu về đêm rực rỡ đèn màu. Lũ trẻ mời mọc mua hoa đăng ven sông
Thu Bồn. Hàng quà vặt rải rác lề đường. Bắp nướng mỡ hành. Chè bắp. Bánh khoai
chiên. Tào phớ. Chí mã phù. Cảnh tượng nô nức như một đêm lễ hội dân
gian.
Ra Huế, lượt đi, anh Ba đề nghị vượt đèo Hải Vân thay vì
xuyên đường hầm, để ngắm cảnh. Đường đèo hẹp, xấu, ngược xuôi xe tải. Bù lại,
phong cảnh tuyệt đẹp, dù trời giăng mây mù. Càng lên cao, càng ngoạn mục. Vách
núi bên này, vực sâu bên kia mở ra cảnh đại dương mờ ảo, bao la. Tới đỉnh đèo,
xe dừng nghỉ. Lác đác vài quán ăn và dăm ba sạp bán quà lưu niệm. Mưa rơi lất
phất. Ông đứng bên bờ vực, trông xuống. Dưới kia, không biết từ đâu, sương khói
thốc lên, mảnh đậm mảnh nhạt. Ngoại giới nhoà nhạt. Nội tâm ngẩn ngơ.
Tới Huế. Trái tim của đất Việt. Vùng đất tán đã gánh chịu
nhiều khổ ải trong thập niên một chín sáu mươi. Sau hơn nửa đời người, lần đầu
ông ghé lại nơi này, chỉ nửa ngày. Thăm viếng một vài danh lam thắng cảnh. Điện
Thái Hoà. Chùa Thiên Mụ. Dạo thuyền sông Hương ban chiều. Tất bật, vội vã, như
thể vụng trộm.
Về lại Đức, ông kể cho cô bạn nghe về một Đà Nẵng "hiện
đại" và "hoành tráng". Cô buông tiếng: "Đà Nẵng bây giờ
không phải là Đà Nẵng của em ngày xưa." Ngắn gọn. Dứt khoát.
Trong chuyến đi lần thứ tư, vừa lúc ngôi nhà của anh chị Ba
Việt kiều Mỹ được xây xong. Anh chị mướn xe mời cả nhà từ Sài gòn về Cầu Kè,
Trà Vinh, dự tiệc tân gia. Ngôi nhà khang trang, vườn cây kiểng tươm tất. Nhưng
quạnh quẽ, vì xa phố chợ. Và khi chạng vạng, muỗi xông tới từng đàn, đập mệt
nghỉ.
Anh chị Ba có mướn giàn nhạc sống miệt vườn. Lúc tiệc sắp
tàn, ông hát tặng anh chị một bài nhạc vàng. "Xin trả lại thời gian"
của cố nhạc sĩ Thanh Sơn. "Xin trả lại những kỷ niệm buồn vui. Ngày xanh
đã theo thời gian qua mất rồi …"
Ký ức những mưa nắng xuân xanh ùa về …
Anh Ba hơn ông bảy tuổi, là người phóng khoáng và chịu
chơi nhất nhà. Một chín sáu ba, trong thời hỗn mang chính trị ở Sài gòn, anh rời
quê hương, sang Pháp du học. Paris. Bordeaux. Ông, mười hai tuổi choai choai, rụt
rè, nhút nhát. Thích văn chương, mê phim ảnh, yêu nhạc. Cái cảm xúc kỳ quặc,
thuở ấy, mỗi khi ông tình cờ nghe được tiếng hát vang vẳng từ bóng tối quán cà
phê. Của Françoise Hardy. "Tous les garçons et les filles de mon âge
…" Của Cliff Richard. "The young ones. Darling we're the young ones
..." Hay xem một cuốn phim tâm lý. L'Osédé. Với Terence Stamp, kẻ sưu tầm
bướm. Và Samantha Eggar diễn vai cô gái có tên bắt đầu bằng vần M: Miranda. Thời
gian trôi, cảm xúc trổ mã. Tâm tư biết xúc động khi nghe Lệ Thu cất giọng Hoài
Cảm một Cung Tiến. "Chiều buồn len lén tâm tư ..." Qua rồi cái thời
thổn thức nhạc Boléro đại chúng. Những chương trình phụ diễn tân nhạc trước khi
chiếu phim. Những đại nhạc hội Kim Cương, Thẩm Thuý Hằng trưa chủ nhật. Áo dài
trắng Phương Dung. Mái tóc bồng Minh Hiếu. Chuyến xe lửa mùng một tết Trần văn
Trạch. Cao Thái, giọng nam cao Mexico. Ô Mê Ly tiếng hát Thái Thanh và ban
Thăng Long ... Tất cả, như một cơn mưa, dẫu nhẹ, cũng đủ tưới đẫm mảnh hồn ông
mười bốn. Cuốn tiểu thuyết đầu đời mua từ mớ tiền túi chắt chiu hằng tháng.
"Điệu Ru Nước Mắt" của Duyên Anh. Và những người bạn thanh xuân. Điếu
Capstan mười tám tuổi một đêm mưa góc đường Tự Do và Lê Thánh Tôn. Sợi khói ngầy
ngật, choáng váng, tan vào lòng đêm ẩm ướt.
Với chiến tranh rình rập. Như những bóng ma khuya trăng
sáng len qua cửa sổ, đè ông ú ớ, bật thức, không dám mở mắt.
Ông nhắc anh Ba những chuyện cũ. Anh đổ xí ngầu thắng ông
chệt bán bò vò viên đường Trần Nhật Duật. Ăn không hết, về nhà kêu em út đem gà
mên ra lấy về. Mùng một tết, sau khi được tiền lì xì, anh chị em xúm lại chơi
bài cào. Lần nào anh cũng thắng. Ông khóc, đòi tiền lại, không phải anh Ba, mà
đòi má.
Tiền hằng tháng má cho những năm ấu thơ, ông để dành
trong hộp thiếc, cất trong tủ áo của má. Một hôm anh Ba rủ rỉ, hùn tiền để anh
đi mua dĩa hát. Lát sau anh đem về tiếng hát Connie Francis, bốn mươi lăm vòng.
Một đám anh em nằm dài ra sàn nhà lót gạch bông, thưởng thức. Hay, nhưng không
hiểu một chữ. Ảnh hưởng anh Ba, ông làm quen và thích nghe nhạc ngoại quốc.
Elvis Presley. Pat Boone. Ricky Nelson. Connie Francis. Brenda Lee. Sau này là
Beatles, Rolling Stones, Simon and Garfunkel, Carpenters. Nhiều, nhiều nữa. Nhớ
không hết.
Anh Ba rất thương em út. Thuở ấy, mỗi khi được bảng danh
dự trong lớp, ông lại xin anh mua dĩa nhạc gởi về. Mỗi gói mười dĩa được anh Ba
đóng gói cẩn thận. Mở ra, còn vướng vất hương giấy bìa, và hơi lạnh đất
Pháp.
Trở lại Sài gòn. Đôi lúc, ông chợt thấu hiểu lời cô bạn đã
có lần tâm sự, và thấy ra: "Sài gòn bây giờ không còn là Sài gòn trong ký ức
ông thời hoa niên." Những con đường mất diện mạo, mang những cái tên lạ.
Hương vị những món ngon cũng khác xưa.
Ông nhớ tiệm phở "Tuyệt", phát xuất từ tên đường
Turc thời Pháp, về sau dời về Hai Bà Trưng. Chủ tiệm là dân Bắc năm mươi tư,
nhưng nhập gia tuỳ tục, ai thích, sẽ có thêm giá trụng, và trên bàn bày đầy đủ
húng quế, ngò tây, tương đen, tương đỏ. Ông nhớ món bún suông Thanh Thế ở góc
đường Nguyễn Trung Trực và Pasteur. Ông nhớ món cơm gà ở quán cơm tây chợ Cũ của
người Tàu. Ông nhớ tô mì vịt Chợ Lớn. Ông nhớ món hủ tiếu dai Thanh Xuân chùa
Chà đường Tôn Thất Thiệp, ăn kèm rau tần ô, rắc hành phi thơm lừng. Ông nhớ những
món tỉm-sấm nhà hàng Đồng Khánh, có thang máy, dập dìu xe đẩy chất đầy rổ hấp,
líu lo lời mời mọc há cảo, xíu mại. Có lúc, ăn sáng xa hơn. Đi chợ Búng Bình
Dương ăn bánh bèo bì. Đi Biên Hoà ăn món cá lóc hấp cuốn bánh tráng. Ông nhớ bữa
ăn tối thịt bò bảy món Ánh Hồng ở Phú Nhuận. Món cua rang muối Bình Lợi quán.
Và những buổi ăn khuya sau khi đi coi chiếu bóng.
Bây giờ, cũng phở, cũng hủ tiếu, cũng cơm tấm, cũng bánh cuốn,
cũng ... Nhưng, dường như thiếu chút gì. Một chút gia vị nhớ? Một chút hương
rau trái đồng nội? Một không gian thoải mái, không ô nhiễm những tiếng chửi thề
vô cớ?
Bẵng đi vài năm, ông lánh mặt Sài gòn, vì những lý do riêng.
Nhớ, nhưng không tiếc. Buồn, nhưng không khổ. Cuộc sống tha hương tiếp diễn lặng
lẽ cùng những thăng trầm khó tránh. Của những nỗi nắng niềm mưa khó giãi bày.
Ngô
Nguyên Dũng
(09. 2018)
*Trích "Sài gòn tạp pín lù", Vương Hồng Sển, nxb Tổng
hợp Đồng Nai, 2005.