Tôi nằm nghiêng mặt vào cửa buồng lắng tai nghe tiếng ngáy của ba tôi. Ông
có tật lớn hễ nằm xuống giường chừng mươi phút là cất tiếng ngáy như sấm dậy.
Mẹ tôi rất khổ sở vì tật lớn đó của chồng vào những năm đầu sống chung với
nhau. Nhưng nghe mãi tiếng ngáy của người đầu ấp tay gối rồi cũng quen đi. Đêm
nào không nghe ba tôi ngáy là bà lo ngại cho rằng chồng mình có chuyện buồn
phiền hoặc đau ốm khó ngủ ngon giấc.
Mỗi lần nghe mẹ tôi cằn nhằn: “Ngủ cái gì mà ngáy như sấm, nằm gần ông chẳng
ai ngủ nghê gì được”. Ba tôi chống chế: “Người ngủ hay ngáy là người vô tâm
không để ý tới chuyện vặt vãnh trong cuộc đời, không để tâm ám hại ai. Ngủ mà
ngáy là ngủ ngon, có đầy đủ sức khỏe…”
Nhờ tiếng ngáy ấy mà mỗi lần tôi muốn hành động bí mật trong đêm, tôi chỉ nằm
im giả ngủ đợi khi ba tôi “kéo gỗ” là tôi ra tay ngay. Từ ngày theo gia đình về
Cần Giuộc chạy giặc “Đồng minh đánh Nhật”, tôi biết rồi quen và kết thân với
Cậu Một Tờ, một người bà con xa của mẹ tôi. Tôi thích cậu, mê cậu như một nhân
tình bởi vì cậu Tờ rất nuông chìu tôi, sẵn sàng thỏa mãn mọi đòi hỏi, sở thích
của tôi. Dù khó khăn cách mấy, cậu cũng cố làm cho tôi vui lòng.
Tôi thì đeo dính cậu, còn ba mẹ tôi thì cấm cản không cho tôi miết theo cậu
bởi vì cậu ở dơ không ai bằng. Một năm cậu tắm bốn lần và gia tài cậu chỉ có
hai bộ đồ thay đổi mỗi lần cậu tắm xong. Ít khi ai dám đứng gần cậu vì người
cậu bốc ra mùi thật khó ngửi, nhứt là hai mảng ghẻ tàu nhầy nhụa trên hai ống
quyển của cậu, xông lên mùi thật thúi của bệnh cùi. Thoạt đầu tôi muốn mửa mỗi
khi xáp gần tới người cậu, nhưng lâu dần mũi tôi cũng quen với cái mùi đặc biệt
ấy.
Mới đêm hôm qua, ba tôi vừa cảnh cáo tôi: “Ba cấm con từ rày về sau không
được ngủ chung với thằng Tờ nữa. Người nó dơ và hôi thúi như chồn mà sao con có
thể nằm bên cạnh nó được chớ? Nó mà lây ghẻ hòm của nó cho con thì chỉ có nước
trời cứu con mà thôi. Nó mắc bệnh phong tình đó, con biết không?” Tôi dạ dạ
vâng vâng, hứa hẹn đủ thứ để khỏi ăn đòn. Tối lại, tôi lại thấy bồn chồn muốn
ra hàng ba chui vào nốp của cậu.
Đợi tiếng ngáy của ba tôi trỗi lên thật đều, tôi lồm cồm ngồi dậy, nhẹ nhàng
tuột xuống bộ ván gõ lẻn ra tìm chỗ cậu Tờ ngủ. Con Mực chạy tới ngừ ngừ. Tôi
đưa tay lên môi bảo khẽ: “Tao đây mầy, đừng có sủa. Hư bột hư đường hết nghe
mậy”. Nó đến bên tôi ngoảy đuôi mừng. Vành trăng lưỡi liềm chiếu ánh sáng yếu
ớt xuống hai ngôi vườn quít, cam và xoài trước sân nhà. Tôi bước nhẹ tới bên
chiếc nốp khẽ gọi cậu Một Tờ. Bóng cậu ngồi ở đầu hàng ba. Cậu búng tay gọi tôi
đến. Cậu hỏi: “Anh chị Bảy ngủ say chưa mà mày dám ra ngoài này vậy?” Tôi đáp:
“Bộ cậu không nghe tiếng ngáy của ông gì đó sao?” Cậu ừ một tiếng nhỏ rồi kéo
tôi ngồi xuống bên cậu. “Tao đã chuẩn bị sẵn sàng từ nảy giờ, đợi mầy ra là tụi
mình xáp trận”.
Tôi nghe mùi xoài tượng và mùi nước mắm đường dấm ớt xông lên mũi. Dịch vị
tôi hoạt động ngay, nước miếng tươm ra trong họng. Tôi nuốt nước miếng đánh ực
nghe rõ mồn một trong đêm thanh vắng. Cậu Tờ và tôi đã ăn nhiều lần món xoài
tượng chấm nước mắm đường dầm ớt cay xé họng rồi, mà lần nào nghe mùi xoài mùi
nước mắm đường dâng lên mũi là tôi bắt đầu chảy nước miếng ào ào không sao cầm
giữ nỗi.
Xuyên qua ánh trăng mờ nhạt tôi thấy cậu Tờ rọc từng mảng xoài xếp hàng lên
dĩa bàn. Cậu một miếng, tôi một miếng, tiếng xoài tượng vỡ giữa hai hàm răng
nghe thật dòn. Vị chua chua cộng với vị mằn mặn ngòn ngọt cay cay làm tôi ngây
ngất. Vừa nhai vừa hít hà, tôi nghe khẩu vị mình trào dâng một cảm giác đê mê
lạ lùng. Thoáng một cái hai cậu cháu đã nuốt gần hết trái xoài tượng lớn bằng
cổ chân. Cậu Tờ nhường cái hột cho tôi. Chấm hột xoài vào nước mắm đường đặc
kẹo, tôi cạp sạch đến vỏ cứng cứng của nó. Cậu Tờ bảo tôi trao hột xoài qua cho
cậu, rồi cậu túm hết vỏ xoài đi thẳng ra ngoài vườn. Một đỗi sau, cậu trở vào
căn dặn tôi: “Không được khoe với ai hết nghe chưa, tao hái trộm xoài của anh
chị Bảy đãi mầy, ổng bả biết được là hết cả mày lẫn tao”. Tôi trấn an cậu: “Bộ
cậu nói tôi ngu lắm sao? Vả lại, cậu sợ gì chớ. Cả ngàn trái xoài đầy gật trên
cây, mất một đôi trái làm sao ba má tôi biết được”. Cậu Tờ giải thích là cậu
leo cao không được, cậu hái xoài dưới thấp. Xoài dưới thấp bị mất trộm dễ bị ba
tôi phát giác vì ba tôi rất tinh ý. Sáng nào ba tôi cũng đi vòng qua vườn xoài
kiểm soát xem đêm qua xoài có bị hái trộm không. Xoài đã tới mùa hái rồi, ba mẹ
tôi đã bán mão cho người ta. Mất xoài không tiếc mà chỉ sợ mất uy tín với bạn
hàng.
Những lần cậu Tờ và tôi ăn xoài, ba mẹ tôi cũng biết xoài bị mất trộm nhưng
ông bà chưa nghi người trong nhà hái trộm mà cho là người hàng xóm tham lam
chơi trò mất dạy. Lần nào cũng vậy, sau khi ăn xong là cậu Tờ đem chôn vỏ, hột
xoài, ra ao rửa thật sạch chén đựng nước mắm đường.
Hết thèm xoài, cậu Tờ rủ tôi ra ruộng bắt cá nhảy hầm. Cậu đào một cái hầm
rộng bằng cái mâm bên bờ đắp, sâu độ nửa thước, trét bùn thật láng chung quanh.
Cậu và tôi ngồi cách hầm xa xa, chờ nghe tiếng cá nhảy từ thửa ruộng bên này
qua thửa ruộng bên kia lọt xuống hầm. Tai cậu rất thính, vừa nghe tiếng động là
cậu chạy nhanh tới rọi đèn bấm xem. Gặp cá kèo cứng, cậu bắt thả vào ruộng. Gặp
cá lóc lớn bằng cườm tay, cậu đập đầu trét bùn kín từ đuôi đến đầu cá, xuyên
một que cây vào miệng cá rồi chất rơm đốt lửa lên thui. Qua ánh lửa bập bùng,
tôi trông thấy mặt cậu nghiêm nghị, lúc thì cau lại lúc lại giản ra, theo từng
nhịp trở mình cá trên ngọn lửa phần phật. Lớp bùn đen đổi màu dần dần trở nên
đỏ ửng. Cá vừa chín thì đống lửa rơm cũng vừa tàn.
Cậu cắm đứng con cá bọc kín trong lớp bùn xuống nền đất ướt trên bờ đắp rồi
trải lá chuối khô ra bắt đầu dọn tiệc. Gia vị chỉ có một ít rau vấp cá, một gói
muối tiêu, vài ba trái ớt xanh. Cậu bảo tôi ngồi xếp bằng trên mặt đất đợi cậu
đãi ăn món cá nướng đất, món sở trường của cậu. Qua ánh đèn bấm, cậu bốc lớp
bùn trên mình cá, vảy cá theo lớp bùn non, lớp thịt trắng tinh bốc khói bay nhè
nhẹ. Mùi thơm đặc biệt tỏa ngát chung quanh chúng tôi. Dịch vị tôi lại làm việc
nhanh chóng. Nước miếng ứa đầy ra miệng. Cá ngọt làm sao ấy. Cậu nhường nạt cho
tôi, còn cậu mút xương và lãnh cái đầu cá. Trong đêm thanh vắng, tôi nghe rõ
tiếng cậu nhai đầu cá dòn rụm.
Những đêm có nước ròng, cậu Tờ lại rủ tôi đi bẫy cá nhảy hầm và nướng ăn tại
chỗ. Ngán cá, cậu lại tổ chức đi bắt con nha, một loại cua nho nhỏ như con
còng. Có đêm cậu bắt được hằng nửa thùng con nha. Nha luộc ăn không ngon bằng
nha nướng. Mùi nha nướng thơm như cua nướng. Thịt nha ngọt không thua gì thịt
cua.
Tình bạn giữa tôi và cậu Một Tờ ngày thêm khắn khít. Một ngày vắng mặt cậu
tôi buồn rã rượi như vắng mặt nhân tình. Ba mẹ tôi càng ngăn cấm tôi gần gũi
cậu thì tôi lại quyến luyến cậu nhiều hơn.
Hai ống chân ghẻ của cậu đối với tôi chỉ là nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời
trai tráng của cậu. Vì chúng nó mà cậu bị mọi người hất hủi, bạc đãi. Cậu Tờ
nào có muốn như vậy đâu. Cậu muốn nó lành lặn để khỏi mang mặc cảm đối với mọi
người chung quanh. Hằng tháng cậu lặn lội đến nhà thương quận Cần Giuộc xin
thuốc uống và bom-mát về thoa ghẻ. Nhưng chờ cả ngày trời, nhà thương chỉ phát
cho cậu một hủ bom-mát nhỏ bằng đầu ngón cái, không đủ trét đầy một phần ba ống
quyển. Trét bom-mát lên mặt ghẻ, nước vàng làm trôi mất thuốc chỉ một hai giờ
sau đó. Cậu nghe thiên hạ bày uống hay chích thuốc trụ sinh thì chóng lành
bịnh. Nhưng làm sao mà có thuốc trụ sinh trị bịnh cho cậu đây? Tiền đâu cậu
mua? Cậu nghèo rớt mồng tơi. Lối xóm có ai nhờ tát ao, gặt lúa, làm công việc
vặt vạnh, cậu chỉ có đủ tiền mua thuốc rê, thứ rẻ tiền nhất để kéo cho đã cơn
ghiền. Không có giấy quyến, cậu quấn bằng lá chuối khô hoặc lá chân bầu.
Món thuốc duy nhất còn lại để trị bệnh ghẻ của cậu là hột lịch mọc đầy ngoài
đồng. Mỗi lần cậu Tờ làm thuốc mới, tôi đều có mặt để giúp cậu một tay. Hai đứa
đi hái trái lịch ngoài đồng đem về dùng chài đâm tiêu đập nhè nhẹ cho hột lịch
rơi xuống nền gạch. Gom hột lịch lại được chừng một tô nhỏ cậu đem ngâm vào cái
thau. Hột lịch nhỏ như hột é, ngâm trong nước ít lâu sẽ nở ra và dính kẹo lại
với nhau.
Cậu nấu nước sôi để nguội, rửa hai mảng ghẻ trên hai ống chân cho sạch rồi
nắn hột lịch thành hai cái máng xối đắp lên trên. Cậu vuốt vuốt cho hột lịch
dán chặc vào mặt ghẻ, chất nhờn của hột lịch bám sát vào da, hít hơi nóng của
ghẻ làm cậu cảm thấy dễ chịu. Hai cái máng xối hột lịch cũ cứng như củi, tôi
thường chơi trò thả tàu trên mặt ao với hai cái máng xối hột lịch khô cứng ấy.
Chúng nó chồng chềnh trên mặt nước trôi theo gió ra giữa ao rồi chìm lĩm. Tôi thương
cậu quá! Tôi không cảm thấy gớm chút nào hết. Có những đêm ghẻ hành, cậu không
ngủ được, cậu lăn trở rên se sẽ. Nằm bên cạnh, tôi cũng thao thức, xót xa dùm
cậu. Làm sao tôi chia sẻ được niềm đau nỗi khổ của đời cậu được phần nào?
Tại vì hai ống chân ghẻ mà cuộc tình đầu đời của cậu tan vỡ, và cậu Một Tờ
phải sống cô độc mãi cho đến tuổi trên bốn mươi vẫn chưa có được một người đàn
bà an ủi, vỗ về.
Ở tuổi hai mươi hai, cậu quen rồi yêu một cô thôn nữ tên Thoa, con gái một
trung nông bên làng Thuận Thành. Tuy là gái quê nhưng cô Thoa khá đẹp lại giỏi
nữ công gia chánh. Cậu Tờ cũng thuộc hạng trai làng có học, dù chỉ đỗ bằng tiểu
học. Cậu lại có khoa ăn nói, hiền lành và đạo hạnh. Trong làng ai cần nhờ việc
gì cậu không hề từ chối, nhứt là thảo đơn từ thưa gởi, kiện tụng. Thậm chí có
người còn nhờ cậu viết dùm thư tình, cậu cũng giúp luôn. Kẻ dư ăn dư để cho cậu
tiền, cậu không hề nhận. Cậu chỉ lấy một vài gói thuốc Bastos đỏ Bastos xanh
hút chơi, vậy thôi. Người nghèo gặp khó, cậu giúp không. Học được vài đòn võ
Thiếu lâm, cậu thường ra tay nghĩa hiệp đánh kẻ mạnh ỷ chúng hiếp cô, bênh vực
người hiền yếu đuối. Cô Thoa mến cậu chỉ vì bao nhiêu đức tính đó. Cuộc tình
Thoa-Tờ khá thơ mộng. Đầu thôn cuối làng ai cũng biết cuộc tình đẹp đôi ấy. Hai
người thề non hẹn biển sẽ yêu nhau suốt đời.
Bỗng, một chiều đau đớn nhứt đời cậu, cô Thoa và cậu hẹn gặp nhau tại ngôi
đình làng để cậu quyết định dứt khoát chuyện cưới xin. Hai người ngồi sát vào
nhau và lần đầu tiên, cậu Tờ thu hết can đảm đặt một nụ hôn lên má cô Thoa. Cậu
hỏi:
– Thoa có muốn làm vợ tôi không?
Cô Thoa thẹn đỏ mặt vụng về nói:
– Sao hỏi kỳ vậy? Bộ chưa tin người ta hả?
– Tin chứ, nhưng tôi muốn chính miệng Thoa nói ra điều đó.
– Ai nói kỳ vậy, mắc cở thấy mồ!
Cậu Tờ nắm chặc tay cô Thoa âu yếm:
– Người ta nói khi hai người thành thật yêu nhau thì không còn e ngại, mắc
cở gì nữa hết. Nếu Thoa còn mắc cở là Thoa chưa thiệt tình thương yêu tôi.
Thoa cuối đầu e thẹn:
– Thương thiệt tình mà!
– Nhưng Thoa có muốn về làm vợ tôi không?
Cậu Một Tờ phải lay hỏi một chập cô Thoa mới khẽ gật đầu. Cậu ôm cô Thoa vào
lòng. Cô Thoa đẩy nhẹ cậu ra, láo liên nhìn chung quanh sợ có ai ở gần trông
thấy. Chiếc khăn tay rơi xuống đất, cô Thoa cúi lượm. Mũi cô thoáng nghe một
mùi thịt thúi phảng phất, cô hỏi trỏng:
– Mùi gì y như mùi chuột chết vậy anh Tờ?
Cậu Tờ giật mình đánh thót:
– Mùi gì đâu?
– Anh không nghe thấy à?
– Không…không có…mùi gì hết.
Cô Thoa đưa mũi đánh mùi chung quanh, lúc ngước lên, khi cúi xuống gần sát
đôi chân cậu Tờ. Cậu đã biết đó là mùi đôi chân ghẻ của mình bị người yêu khám
phá. Cậu ngượng cứng cả mình mẩy. Cậu lo, cậu sợ. Cậu nghe lòng tê tái. Cậu
tưởng chừng như hạnh phúc vừa mới tràn đầy, giờ đã vuột khỏi tầm tay rơi vỡ tan
tành. Đôi chân ghẻ làm ung thối cuộc tình vừa nẩy trong tim hai người.
Cô Thoa bảo:
– Chắc là con gì chết sình ở trong đình nên bốc mùi thúi dữ vậy đó.
Cậu Tờ nắm tay cô Thoa nói nhanh:
– Ờ…ờ thúi thiệt. Thôi tụi mình về đi Thoa.
Cậu đưa cô Thoa ra cửa đình rồi hai người chia tay nhau. Cậu trở về nhà như
kẻ mất hồn. Cậu đã cố dấu đôi chân từ nửa năm nay. Cô Thoa chưa hề biết bệnh
tật của cậu. Mỗi lần hẹn gặp cô Thoa, cậu rửa ghẻ thật sạch, băng bó cẩn thận.
Lần gặp này, cậu bận quá nhiều việc nên quên bẵng đi yếu điểm của đời mình. Cậu
hối hận. Cậu buồn và tự trách mình. Suốt hai ngày trời, cậu bỏ cơm bỏ nước trốn
biệt trong phòng riêng. Bịnh không hẳn là bịnh, nhưng cậu rã rời tay chân đi
đứng hết muốn nổi.
Cô Thoa chưa biết gì cả. Cô chỉ nghĩ rằng mùi hôi thúi kia phát xuất từ một
con vật gì đó chết sình trong ngôi đình làng. Hình ảnh cậu Một Tờ vẫn rạng rỡ
trong trái tim cô Thoa.
Nhưng rồi việc gì phải đến đã đến. Tiếng đồn của trai tráng trong làng ganh
tức với cậu Tờ dần dần lọt vào tai cô Thoa.
– Già kén kẹn hom! Con Thoa nó hết người thương rồi hay sao mà nhè chọn cái
thằng Tờ ghẻ hòm!
– Hai mảng ghẻ tàu trên hai ống chân của thằng Tờ sẽ cho con Thoa nó hít mùi
đã dữ a! Ngủ quên nó gát hai ống chân thúi đó lên mũi, con Thoa có nước chết
ngắc chớ sống sao nỗi.
– Nó lén lên Sài Gòn chơi bời mắc bịnh kín nên thân thể mới ra nông nỗi đó!
Mang bệnh đó làm sao sanh con đẻ cái được mà con Thoa nó ham?
Cô Thoa nghe đầy tai lời chế diễu độc ác. Cô sực nhớ lại mùi hôi thúi ở lần
gặp gỡ cuối cùng với cậu Tờ. Cô nửa tin nửa ngờ. Cô lén điều tra người nhà của
cậu Tờ. Tiếng đồn đãi rõ ràng là sự thật. Cô Thoa chết điếng. Từ trên đỉnh cao
hy vọng, tin yêu, cô rơi xuống vực sâu tuyệt vọng và khiếp đảm.
Và từ đó, cậu Tờ không còn bao giờ gặp lại cô Thoa nữa. Mối tình đầu đời của
cậu giãy chết ngay sau cuộc hẹn hò cuối cùng ấy.
Cậu kể lại cho tôi nghe. Tôi thấy trong mắt cậu long lanh màn nước mỏng. Cô
Thoa hãy còn sống bên làng Thuận Thành, cô đã là một bà mẹ tám con, đứa con gái
đầu lòng đã mười chín tuổi. Nay cô đã là bà và có cháu ngoại. Chồng cô là một
nông dân lực lưỡng, suốt đời chỉ biết cầm cuốc làm ruộng rẫy.
Nhựt đầu hàng Đồng Minh. Chiến cuộc Việt Nam rẽ sang một lối khác. Việt Minh
nổi dậy khắp nơi. Pháp quay trở lại Việt Nam. Gia đình tôi bỏ Cần Giuộc về Chợ
Lớn. Tôi tiếp tục việc sách đèn. Buổi chia tay với cậu Một Tờ tôi khóc thật
nhiều như thể chúng tôi không còn bao giờ gặp nhau nữa.
Cậu ôm đầu tôi vỗ về:
– Cháu về trên ấy mạnh giỏi. Ráng ăn học để sau này thành tài giúp dân, giúp
nước. Thỉnh thoảng cậu sẽ lên thăm cháu. Chợ Lớn Cần Giuộc không cách xa nhau
mấy cây số đâu.
Tôi lặng thinh siết chặc tay cậu như không muốn rời xa. Tôi nghĩ cậu nói vậy
cho tôi yên lòng chứ tôi biết chắc là cậu sẽ khó mà gặp tôi, vì cậu làm sao có
tiền mua vé xe đò lên thăm tôi.
Đúng như điều tôi nghĩ, tôi rời làng Phước Lâm đã ba năm mà tôi và cậu Một
Tờ chưa gặp lại nhau một lần. Tôi hỏi thăm ba mẹ tôi thì mới hay cậu đã bỏ làng
Phước Lâm đi đâu không ai biết.
Rồi một ngày, tôi nghe được tin sét đánh về cậu Một Tờ: cậu đã bị Việt Minh
xử bắn. “Chánh quyền cách mạng” bắt cậu về tội làm gián điệp cho Pháp. Người ta
dựng lên một “toà án nhân dân” tại ấp Phước Kế, đọc bản án “phản quốc” và
bắn cậu Tờ ngay trước cửa đình làng Phước Lâm, nơi mà cách đó hai mươi mấy năm
về trước, cậu và cô Thoa gặp nhau lần cuối cùng.
Tôi lén ba mẹ về Cần Giuộc tìm thăm mộ cậu Một Tờ. Không ai biết xác cậu
được chôn cất ở đâu vì người ta kéo xác cậu đi mất sau cuộc xử bắn. Bà con lối
xóm bàn tán xôn xao một dạo về “tội phản quốc” của cậu Tờ. Trong mười người có
tới chín người bất nhẫn trước cái chết của cậu. Cậu Tờ làm sao làm gián điệp
cho Pháp được. Tiếng Pháp cậu dốt đặc kia mà! Người ta chỉ thấy cậu thường đi
đi về về xã Long Phụng với áo quần, giày nón mới, rồi tình nghi cậu lấy tiền
của giặc điềm chỉ này nọ. Thực ra, cậu đã bỏ đồng ruộng lặn lội lên Trảng Bom
đi làm cây rừng với một người quen. Có tiền cậu sắm áo quần, nón, giày mới
thường trở về quê chơi, đãi bạn bè nhậu nhẹt. Cậu đã chết oan! Chết vì tính
chất độc ác của một số nhỏ người mệnh danh làm cách mạng! “Thà giết lầm hơn thả
lầm”.
Tôi ngồi trước thềm nhà cũ nhìn hai mảnh vườn xoài và cam quít. Lòng tôi
quặn đau từng cơn. Bao nhiêu kỷ niệm êm đềm của một thời “chạy giặc” kết bạn
vong niên với cậu Một Tờ chợt sống dậy trong tâm tưởng. Vườn xoài bây giờ không
còn xum xuê như thuở nào nữa, những trái xoài màu vàng trắng vẫn còn lắc lư,
đong đưa trong gió như nhắc nhở tôi những đêm cậu Tờ trộm xoài của ba mẹ tôi
cùng tôi ăn ngấu nghiến với nước mắm đường dầm ớt xanh. Hình dung miếng xoài
tượng dòn khứu chấm thật sâu vào chén nước mắm đường dầm ớt đặc kẹo, bỏ vào miệng
nhai rom róp, nhưng tôi không còn thèm chảy nước miếng như thuở nào nữa. Nó sẽ
làm tôi ê răng tê lưỡi vì thiếu vắng một người, một người dơ dáy bẩn thỉu nhưng
tôi yêu và quý nhất trong đời. Tôi đã từng ví cậu Một Tờ như “Thằng gù nhà thờ
Đức Bà”. Cái thân thể xấu xí dơ bẩn hôi hám của cậu chứa đựng một con tim kim
cương và một tấm lòng vàng.
Tôi rảo bước trên từng bờ đắp ngăn chia hàng hàng lớp lớp ruộng nước trãi
dài đến ngút ngàn. Tôi bồi hồi nhớ lại những đêm bắt cá nhảy hầm với cậu Tờ.
Món cá trét bùn nướng rơm thơm ngon, ngọt lịm không còn làm tôi thèm nữa mà bắt
tôi nhớ cậu Một Tờ vô vàn! Chân tôi vướng cây lịch. Tôi dừng lại cúi xuống ngắt
một cành đầy hột. Bóp nát hột ra, vô số hột nhỏ li ti rơi nằm trên lòng bàn tay
tôi. Tôi nhổ một bãi nước bọt, cắm đầu hột lịch vào. Một tiếng “tách” bật lên,
hột vỡ đôi. Không còn cậu Tờ nữa, ai sẽ dùng hột lịch chế thành một thứ thuốc
trị ghẻ không bao giờ lành. Cây hột lịch bây giờ mọc đầy khắp nơi. Chúng tha hồ
mọc. Cậu Một Tờ bây giờ đã ra người thiên cổ rồi. Ghẻ cậu đã lành hay vẫn còn
hành nhức cậu từng đêm?
Giữa hoàng hôn đồng nội, tôi lững thững bước đi như kẻ mất hồn. Ngang qua
cổng đình làng, tôi dừng lại nhìn vào trong. Cửa đình mở rộng, chỉ toàn một màu
đen sẫm. Ở một nơi nào đó thuở xa xưa, cậu Một Tờ và cô Thoa đã đứng sát vào
nhau nói chuyện tương lai hạnh phúc, và cũng một nơi nào đó, mộng đẹp của cậu
đã đổ vỡ tan tành.
Bỗng dưng tôi bắt rùng mình. Tôi tưởng chừng như oan hồn của cậu hiện về và ôm
choàng lấy tôi.
Sĩ Liêm
Nguồn: VĂN, số 60, tháng 6/1987