Vợ chồng tôi dọn về ở trong cái làng
nhỏ này đã hơn ba tháng. Mấy đứa con của chúng tôi nói: “Ba má già rồi mà ở
trong Paris đâu có tốt. Nội cái không khí ô nhiễm cũng đủ làm cho ba má bịnh
lên bịnh xuống hoài.” Vậy là chúng nó kiếm mua một cái nhà ở xa Paris…
Sen mọc từ bùn mà vẫn sạch! Cho thấy
Tánh Giác của chúng ta. Từ lúc mới nhú nụ, hoa đã mang sẵn trái trong lòng chớ
không như các loài hoa quả khác hoa phải tàn mới sinh ra trái. Giáo lý nhà Phật
đã đề cập đến hoa sen là luật “Nhân Quả Ðồng Thời” để chỉ cho thấy hậu quả của
việc làm, chúng ta sẽ gặt cái quả đúng theo cái nhân đã gieo trồng. Sen là loài
hoa tinh khiết có mùi thơm mà không quyến rũ đàn ong lũ bướm. Ðó chính là tánh
không vướng mắc không tham đắm, là cội nguồn của giải thoát. (Võ Hoài Nam/Uyên
Hạnh)
Biết là mùa Xuân
nhờ hoa nở và chồi non, chớ thật ra thời tiết ở Pháp mấy năm gần đây đi… trật
lất. Mùa Xuân mà cứ tưởng như mùa Thu, cứ mưa lất phất rồi hết mưa là trời đổ
sương mù. Cứ như vậy kéo dài đến bây giờ, theo trong lịch, là đã đầu mùa Hè mà
vẫn còn nghe lành lạnh!
Hôm nay tự nhiên
trời bỗng trở nắng. Nắng thật ấm, thật trong. Người ta vội vã mang đồ ra phơi
đầy sân: quần áo, drap, mền… Ðủ màu sắc, đủ cỡ, coi vui nhộn như một ngày lễ!
Tôi cũng thấy phấn
khởi, bèn rủ nhà tôi đi chơi một vòng. Bởi vì từ ngày dọn về đây, ngoại trừ
những lúc phải “xẹt” ra tiệm thịt, lò bánh mì, hàng rau cải v.v… chúng tôi cứ
ru rú ở trong nhà vì thời tiết xấu. Nhà tôi không chịu đi, nên tôi đi mình ên…
Làng này tuy nhỏ
nhưng ngăn nắp, sạch sẽ. Ở đâu cũng thấy trồng bông: dọc theo vỉa hè, ở các ngã
ba ngã tư, mặt tiền nhà phố… Giữa làng là một nhà thờ nho nhỏ nằm trên một
vuông đất cao hơn mặt đường gần một mét, cũng trồng đầy bông.
Chảy ngang qua làng
là một con suối nhỏ, rộng độ mươi thước, chui dưới cây cầu đá rối uốn khúc
quanh quanh trước khi rời làng xuôi về phía dưới. Hai bên bờ suối là hai con
đường tráng xi-măng chạy dọc theo hai hàng cây.
Rải rác, có mấy
băng gỗ đóng thô sơ, nhưng vẫn nằm giữa những lùm bông đầy màu sắc. Có nơi,
không hiểu sao người ta đặt băng gỗ nằm cạnh bờ nước giống như làm chỗ ngồi cho
người đi câu!
Tôi ngồi xuống một
cái băng cạnh bờ nước. Vì không nằm dưới tàn cây nên ở đó đầy nắng. Tôi đốt
điếu thuốc rồi nhìn quanh: chẳng có ai hết. Nhớ lại, dân trong làng chỉ đổ ra
đường vào ngày Chủ Nhựt, bởi vì ngày đó nhóm chợ lộ thiên và lại là ngày phải
đi lễ nhà thờ. Còn ngày thường thì chỉ có mấy ông già bà già đi khệnh khạng
trên hè phố hay dọc bờ suối khi nào trời tốt. Hôm nay, trời tốt đó chớ, nhưng
sao chẳng thấy ai đi. Tự nhiên, tôi cảm thấy bơ vơ lạc lõng. Lại nhìn quanh,
chỉ thấy xa dưới kia là gác chuông nhà thờ một mình đứng cao lêu nghêu!
Con suối không sâu,
nước trong nhìn thấy đáy. Dòng nước chảy nhanh nhanh. Khi gặp mấy tảng đá lớn,
nước bắn lên trắng xóa coi thật sinh động, nhìn không chán.
Lòng suối đầy đá
cuội tròn tròn. Cũng có những cục đá to nhưng chẳng có viên đá nào còn góc
cạnh. Viên nào cũng nhẵn thín.
Nhìn nước chảy,
nhìn đá mòn, tôi bỗng nhớ đến hai câu chót của bài học thuộc lòng thuở nhỏ :
“Ðá mòn nhưng dạ
chẳng mòn,
Tào khê nước chảy
vẫn còn trơ trơ…”
Hai câu thơ đó
không có gì hết, vậy mà nó làm tôi ứa nước mắt! Không phải nó chỉ nhắc tôi thời
thơ ấu, thuở học vui học buồn bằng quyển “Quốc Văn Giáo Khoa Thư,” mà nó còn
nhắc tôi một cái gì sâu đậm hơn là kỷ niệm, một cái gì to rộng mênh mông hơn là
không gian thời gian, một cái gì mà trong cuộc đời lưu vong này tôi vẫn mang
mểnh trong tâm tư, giống như một chất ma túy: nó nhắc tôi quê hương, cái quê
hương xa cách ngàn trùng!
Tính ra, tôi bỏ xứ
ra đi đã hơn hai mươi bốn năm. Một phần tư thế kỷ! Trôi nổi đó đây với nhiều âu
lo dằn vật, thêm tuổi đời cứ chồng chất mãi lên… nên ký ức bị xói mòn theo năm
tháng. Ðến nỗi chuyện gì xảy ra hôm tuần rồi, hôm tháng trước… có khi không
nhớ! Vậy mà hình ảnh của quê hương vẫn còn nằm nguyên đâu đó ở trong lòng, với
những kỷ niệm vụn vặt của năm sáu chục năm về trước! Chỉ cần một chất xúc tác
là nó bật lên rõ rệt, không thiếu một chi tiết, làm như mình đang sống trong đó
mới hôm qua hôm kia… Tình yêu quê hương sao mà kỳ diệu như vậy được?
Nơi tôi sanh trưởng
cũng là một cái làng nho nhỏ. Nó không ngăn nắp sạch sẽ, không được trang hoàng
bằng những bông hoa đầy màu sắc như ở đây. Cũng không có con suối nhỏ chảy
ngang để hai bờ được nối với nhau bằng cây cầu đá…
Làng tôi nằm bên tả
ngạn một con sông lớn, quá lớn nên thấy cái làng như nhỏ xíu! Con sông đó có
cái tên chẳng chút gì “văn chương” sông Vàm Cỏ. Trong làng chỉ có một con đường
tráng nhựa: đó là đường liên tỉnh, cũng còn được gọi là “con lộ cái” nối xóm
trên xóm dưới. Ngoài ra, toàn là đường đất mà tiền thân của chúng nó là những
con đường mòn, nối xóm Nhà Máy, xóm Lò Heo qua xóm Lò Gạch, xóm Chùa… Cho nên
những con đường trong làng đều chạy cong cong quanh quanh!
Làng tôi cũng có
chợ nhà lồng, ngày nào cũng nhóm nhưng chỉ nhóm có buổi sáng. Nằm cạnh chợ là
“Nhà Việc,” nơi… làm việc của những “nhà chức trách” trong làng.. Xế xế về phía
con lộ cái là trường tiểu học với hàng rào cây bông bụp, lá xanh um láng mướt.
Làng tôi không có
nhà thờ nhưng có một “kiểng” chùa nằm trên một khu đất cao, có rào tre xanh
chung quanh. Hồi tôi còn nhỏ, chùa cũng nằm xa dân chúng, vắng vẻ u tịch (hồi
đó, tôi ít dám đi ngang qua đó một mình vì… sợ ma!)
Về sau, dân chúng
càng ngày càng đông, nhà cửa cứ xây cất tiếp nối nhau kéo dài ra hướng chùa,
rồi “đi” xa hơn về phía con lộ cái. Vì vậy, chùa bị lọt chũm giữa khu nhà dân,
không còn biệt lập như trước.
Nhà cửa trong làng
nhỏ lớn gì cũng có hàng rào. Phần nhiều là hàng rào cây xương rồng và cây bông
bụp (cũng gọi là bông lồng đèn) Xương rồng cũng trổ bông lai rai, hoa trắng nõn
nà mỏng manh như lụa, khác hẳn với thân cây mang đầy gai góc! Còn bông bụp thì
cứ nở thè lè đỏ cây… Ðó! Làng tôi đó! Quê trân! Chẳng chút màu mè. Vậy mà sao
tôi vẫn thương… Thương những con đường đất mà hai bên là bờ cỏ may. Ðến mùa,
cọng cỏ may đưa bông lên tua tủa tím ngắt, chỉ chực bám đầy ống quần nào bất
chợt đi ngang… Thương những đoạn đường quằn, mùa mưa nước ngập phải xăn quần
tém áo để đi qua, trong lúc trẻ con một lũ ở truồng nằm lăn chập chũm, tóe nước
nhau cười vui như hội… Thương bờ sông Vàm Cỏ với những cây dừa trồng không
thẳng hàng, cũng không chia đều khoảng cách, giống như “mạnh ai nấy trồng”! Mấy
cây dừa đó, nằm quá gần bờ nước nên rất nhiều cây thiếu đất để giữ gốc, chúng
nằm dài ra phía sông cách mặt nước độ một đôi thước rồi uốn mình đưa ngọn đứng
thẳng lên cao. Vậy mà cũng đơm bông kết trái! Trẻ con thường trèo lên đó để
phóng xuống nước nô đùa lặng hụp, và dân ở dọc bờ sông hay đem mền chiếu ra vắt
lên đó để phơi… Thương con đường lên chùa có hai bờ tre xanh lả ngọn giao nhau
làm cho con đường giống như một cái hang mát rượi. Ở đó, mỗi trưa đứng bóng,
những người dọn hàng từ chợ về nhà thường dừng chân núp nắng, và chiều chiều
đường vắng cũng thấy thẩn thơ một cặp gái trai.
…Thương cả cây
phượng nằm bên bờ đường trước nhà ông Cả. Thân nó to bằng ba người ôm, gốc rễ
lấn luôn ra mặt đường. Ai đi qua cũng phải bước vòng để tránh! Ðó là cây phượng
độc nhứt ở trong làng. Không biết ai trồng và tại sao lại trồng ở đó? Chỉ biết
hằng năm vào mùa thi là cây trổ hoa đỏ trời. Sau đó là hoa rụng đỏ đất.
…Và còn thương
nhiều thứ nữa, kể biết bao giờ cho hết!
Nhà tôi ở trong Xóm
Mới. Gia đình tôi nghèo. Cha tôi trồng rau cải, mẹ tôi hằng ngày gánh xôi ra
ngồi bán ngoài chợ. Cha mẹ tôi chỉ có hai đứa con trai: tôi và thằng Cu, nhỏ
hơn tôi sáu tuổi. Cha tôi chết bịnh hồi mẹ tôi sanh thằng Cu… Nhớ hoài, thời
tôi học tiểu học. Sáng nào, sau khi húp tô cháo với miếng đường thẻ, tôi ôm cặp
đựng sách vở mà ông nội tôi làm bằng giấy dầu để khỏi bị ướt nước mưa, đi theo
mẹ tôi ra chợ. Vì phải đem thằng Cu theo – lúc đó nó được hơn hai tuổi – mẹ để
nó ngồi trong một cái thúng, gióng ở đầu đòn gánh phía trước, còn lá chuối,
xôi, nhưn dừa nạo, v.v… vồn trong một thúng gióng ở đầu sau. Mẹ gánh như vậy mà
bước chân đi sai sải.. Ðòn gánh nhún lên nhún xuống làm thằng Cu khoái lắm. Lâu
lâu, mẹ đổi vai, đầu đòn gánh nhún xuống hơi sâu và tưng lên hơi cao làm anh ta
cười hắc hắc để lòi bốn cái răng cửa nhỏ xíu. Những lúc đó, anh ta thường gọi
tôi để khoe: “Hai! Hai! Coi nhè! Coi nhè!”
Tôi học chỉ có buổi
sáng. Mẹ tôi bán ở chợ cũng vậy. Trưa, chợ tan sớm hơn trường học, mẹ gánh
thằng Cu đến ngồi đợi tôi dưới cây trứng cá gần cổng trường. Thấy tôi ra, thằng
Cu đứng lên, vừa nhảy tưng tưng trong cái thúng vừa la “Hai! Hai!” Anh ta ở
truồng – lúc nào cũng ở truồng – bên trên bận áo bà ba vải đen của bà nội may
cho, đầu đội cái nón hình chóp bằng lá chuối mẹ xếp rồi ghim bằng cọng chân
nhang… Mẹ đưa tôi gói xôi (đã thành lệ, ngày nào mẹ cũng chừa cho tôi một gói)
tôi ngồi xổm cạnh mẹ, vừa ăn vừa đút cho thằng Cu. Ăn xong, tôi chạy qua bên
kia đường xin một gáo nước ở nhà thầy giáo Hiển rồi mang cho ba mẹ con uống (vì
trong trường chỉ có một lu nước, không đủ cho đám học trò nên thầy Hiển đặt
trước nhà thêm một lu. Vào giờ ra chơi, học trò bu qua đó đông như kiến). Uống
xong, mẹ gánh thằng Cu bước đi thong thả, tôi lon ton chạy theo song song…
Hồi đó, vì phải
chạy lúp xúp nên có lần tôi nhìn xuống bước chân của mẹ, coi mẹ đi cách nào mà
mình cứ phải chạy theo lúp xúp! Mẹ đâu có bước lẹ, mẹ bước đều. Mẹ đi chân
không, mỗi bước chân của mẹ giậm xuống làm tung lên một chút bụi đường. Tôi
nhìn chỉ thấy có như vậy. Bây giờ, hơn sáu chục năm sau, ngồi ở trời Tây này,
tôi đâu cần nhìn mà sao vẫn thấy được – thấy rõ – hai bàn chân của mẹ. Hai bàn
chân to bề ngang, mấy ngón chân chè bè không bao giờ xếp lại được. Hai bàn chân
xấu xí đó chưa từng đụng tới đôi giày đôi dép. Hai bàn chân chỉ biết có đôi
guốc dong khi rửa chân đi ngủ, hay khi đi dự đám giỗ, đám tang… Hai bàn chân đó
đã bám lấy đất để đứng vững một mình nuôi hai thằng con, hỏi sao không chè bè
cục mịch cho được?
Tôi bồi hồi nhớ lại
lần tôi lau rửa đôi bàn chân của mẹ. Ðó là hồi mẹ tôi mất sau một thời gian dài
nằm bịnh ở nhà thương (Mẹ ngã bịnh từ ngày hay tin thằng Cu chết trận ở Ðắc
Lắc…) Tôi lau chân mẹ lần đó là lần đầu và dĩ nhiên cũng là lần cuối cùng. Tôi
lau gót chân nứt nẻ. Tôi lau lòng bàn chân chai mòn. Tôi lau những ngón chân
tròn cứng như những hòn sỏi. Tôi lau chân mẹ bằng suối nước mắt và bằng tất cả
sự thận trọng như khi lau một món đồ thật là trân quí…
Tôi đốt điếu thuốc,
thở một hơi khói dài. Lại nhớ hồi học lớp nhứt, có hôm tôi bắt chước bạn bè lén
hút thuốc. Mẹ tôi thấy được, lôi tôi vào nhà bắt đứng khoanh tay để “hỏi tội”:
“Hai ! Ai cho mầy hút thuốc, hả? Ai dạy mầy hút thuốc, hả? Mầy bắt chước ai,
nói tao nghe coi? Mới có bây lớn đó mà bày đặt hút thuốc!” Rồi mẹ chụp cây chổi
chà dựng gần đó: “Tao phải đánh mầy cho mầy chừa.” Mẹ vừa nói, “Chừa nè!” vừa
đập cây chổi lên đít tôi thật mạnh. Cứ mỗi một câu “Chừa nè!” là một phát chổi.
Mẹ đánh một lúc rồi liệng cây chổi, trèo lên bộ ván, ngồi co chân, rút cái khăn
rằn đấp lên mặt khóc. Tôi đứng chết điếng, nghe mồ hôi chảy dài theo xương
sống, không thấy đau ở đít mà đau ở đâu trong lòng. Bởi vì đó là lần đầu tiên
tôi làm cho mẹ tôi khóc. Tôi mếu máo, rặn ra mấy tiếng: “Dạ… con xin chừa.”
Vậy mà lớn lên, khi
ra đời, tôi đã… không chừa! Tôi tập tành hút thuốc hồi tôi đi lính, bởi vì “ở
tiền đồn trời khuya đêm lạnh, ta chia nhau điếu thuốc ấm lòng”… Mỗi lần về
phép, chẳng bao giờ tôi dám hút ở nhà vì trận đòn chổi chà thuở nhỏ vẫn còn đeo
theo ám ảnh! Tôi hút ngoài đường…
Một hôm, đang đứng
hút thuốc với mấy thằng bạn cùng xóm, bất thần mẹ tôi đi qua. Tôi vội vã liệng
điếu thuốc xuống đất. Mẹ tôi dừng lại, mỉm cười: “Mầy làm cái gì vậy, Hai? Mầy
lớn rồi chớ bộ còn con nít sao. Bây giờ, mầy có hút thuốc, tao cũng đâu có bắt
mầy chừa!” Rồi bỏ đi một nước!
Mẹ tôi như vậy đó.
Quê mùa mộc mạc như làng của tôi, vậy mà tôi vẫn thương. Tôi thương, đâu cần mẹ
tôi phải đẹp, quê hương tôi phải sang. Tôi thương, vì tất cả đều gắn liền với
tôi từ thuở tôi ra chào đời. Tôi đã quen thở, quen sống trong vòng tay của mẹ,
giữa lòng quê hương; đã lớn lên trong cái thật thà chân chất đó. Cho nên hình
ảnh của mẹ, của quê hương đã ghi sâu vào lòng tôi đến độ khi thiếu vắng, tôi
thương tôi nhớ. Và tình thương đó vẫn chưa thấy mòn, mặc dầu bây giờ tôi đã
ngoài bảy mươi.
***
Mặt trời đã lên
cao. Thấy có vài người hứng nắng bên bờ suối. Tôi đứng lên đi về nhà mà miên
man nghĩ: “Những hình ảnh mà mình vừa gợi lại khi nãy sao mà dễ thương như vậy.
Mình phải viết ra để cho nó có chỗ đứng bên ngoài ký ức, cho các con các cháu
của mình thấy và hiểu tại sao hơn hai mươi bốn năm sống trên đất Pháp, cha và
ông của chúng nó không nói ‘thương nước Pháp’ mà cứ nhắc hoài người mẹ đi chân
đất và cái làng quê mùa không có đến hai con đường tráng nhựa!”
Vào nhà, tôi đi
thẳng lại bàn viết. Vợ tôi chắc đang nấu bếp nên nghe phất ra thơm phức mùi
thịt kho tiêu. Tôi lấy xấp giấy trắng, không cần đốt điếu thuốc, không cần hớp
mấy ngụm nước trà để trợ hứng. Bởi vì cái hứng đang ở ngay trong tôi, căng đầy…
Tôi cầm bút nắn nót
viết cái tựa bằng chữ hoa: “ÐÁ MÒN NHƯNG DẠ CHẲNG MÒN.”
Tiểu Tử