“Tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng,
cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào
thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn, và các cháu thanh niên nhi đồng quốc tế.”
Hồ Chí Minh (Di chúc, ngày 10 tháng 5 năm 1969)
Tôi đã có lần phiêu lưu – từ Vũng Tầu về đến tận Sài Gòn – trên một
chuyến xe đò chở nặng khách hàng, cùng với nỗi âu lo (có thể nhìn
thấy được) trên nét mặt của từng người. Khi đất nước còn trong cảnh ngăn
sông cách chợ, di chuyển trên một đoạn đường dài mấy mươi cây số – từ
địa phương này, đến địa phương kia – là một khoảng cách rất “nhiêu
khê,” và “mạo hiểm,” đối với nhiều người. Riêng tôi nhẹ tênh, chỉ có
hai tay đút túi, nên được cho lên băng trước – ngồi giữa bà chủ xe và
ông chồng, đang cầm lái.
Phụ xe ở Việt Nam vốn là một nghề vất vả, và vất
vả nhất là lúc … cách mạng (vừa) về! Ngoài chuyện đón khách, thu
tiền, sắp xếp chỗ ngồi và hàng hóa, còn phải tất bật lo lót ở
các trạm kiểm soát. Chi nhiều quá thì lỗ mà chung ít quá thì đi (e)
không lọt.
Ét xe – do đó – phải năng nổ, tháo vát, nhanh tay, lẹ
mắt, và … lẹ miệng. Những “đức tính” cần thiết này, bà chủ chiếc
xe đò – kiêm luôn việc của lơ xe, hôm ấy – đều không thiếu, hoặc có dư.
Lúc thì lớn bà la lớn quát tháo đòi thêm tiền hành khách, khi thì
bà sởi lởi tươi cười nhỏ nhẹ với những chú công an, và trong lúc xe
lăn bánh thì bà chuyển vai – từ phụ xe, sang … phụ lái:
Tắp qua lề trái, tắp qua lề trái … coi chừng, coi chừng ổ gà bên
phải…
Rà thắng, rà thắng, chậm chậm, chậm chậm, coi chừng
mấy đứa nhỏ bán hàng rong …
Thắng, thắng, thắng liền …, thấy ông già muốn qua
đường không ?
Quẹo, quẹo, quẹo… nha…
Stop, stop, stop…
Bà mím môi, trợn mắt, ngoẹo cổ, nghiêng người, đạp
chân … – tùy theo tình huống. Tôi liếc nhìn ông chồng (vẫn điềm nhiên
cầm lái) và thoáng có ý nghĩ rằng đây chính là một vị Bồ Tát hoá
thân. Ngài hiện diện giữa cõi trần – đầy bi ai, hệ lụy – để dậy cho
chúng sinh một bài học sống động về gương điềm đạm, và nhẫn nại.
Tất nhiên, đây chỉ là một ý nghĩ viển vông. Ông chủ xe cũng chỉ là
một người trần. Và sức người, tất nhiên, có hạn:
Đ.. mẹ, sao mà mày … bao la quá vậy Tám!
Bà Tám, quả tình, có hơi bao biện và bao la (quá)
thật. Chớ phụ nữ, nói chung, ai mà không… bao la chút đỉnh – đúng
không? Thuộc tính này, khách quan mà xét, ít thấy ở những người
khác phái. Đàn ông, tuy thế, khi đã “chịu” bao la thì mấy chả cũng
(“trời /biển”) hết biết luôn.
Trẻ thơ trong kỹ nghệ sắt thép. Nguồn: tuoitre.vn
Hồ Chí Minh là một trong những người (thuộc diện)
bao la như thế. Di chúc của ông có đoạn viết: “Cuối cùng, tôi để lại muôn
vàn tình yêu thương cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, các cháu
thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào đến các đồng chí, các bầu bạn và
các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.”
Thiệt là mát trời ông Địa! Tác phẩm Mênh Mông Tình Dân của bác Lê
Khả Phiêu (hẳn) phải được gợi hứng từ những ý tưởng mông mênh (cỡ
đó) của bác Hồ. Vì các bác đều bao la (quá đáng) nên nhi đồng ở ta
đã bị Đảng và Nhà Nước bỏ quên.
Sau hơn nửa thế kỷ cầm quyền, đến ngày 12 tháng 2
năm 2004, mới thấy có quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ (số
19/2004/QĐ-TTg) về việc phê duyệt Chương trình Ngăn ngừa và giải quyết tình trạng
trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc,
trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004 – 2010. Mục tiêu cụ thể
của quyết định này là “ngăn chặn và trợ giúp trẻ em lang thang kiếm sống để
đến năm 2010 giảm được 90% số trẻ em này.”
Năm năm sau, báo Dân Trí (số ra ngày11 tháng 11 năm 2009) đi tin: “Theo Bộ
LĐ-TB&XH, tính đến thời điểm này cả nước vẫn chưa có cuộc điều tra chính thức
nào về hình thức lao động mà trẻ em tham gia mà chỉ dựa theo số liệu điều tra mức
sống dân cư… Lạm dụng lao động trẻ đang là vấn đề nổi cộm của xã hội và đang được
Chính phủ từng bước giải quyết.”
Và cho đến khi đáo hạn, vào ngày 28 tháng 4 năm 2010,
bà Nguyễn Mai Oanh – (Điều phối viên của ILO – International Labour
Organization) cho biết:
“Hình ảnh mà chúng tôi nhìn thấy trong chuyến khảo sát thực
tế vẫn là những đứa trẻ lang thang bán vé số, đánh giày, xin ăn… Dưới mọi hình
thức, lao động trẻ em cần được hỗ trợ để xóa bỏ. Do đó, dự án mong muốn có những
con số cụ thể, hoàn cảnh xác thực để xây dựng phương thức hỗ trợ hợp lý và hiệu
quả.”
Nói cách khác, kể từ lúc có quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ
(ký năm 2004) với mục tiêu cụ thể là “đến năm 2010 sẽ giảm được 90% số
trẻ em lang thang kiếm sống “ cho đến hôm nay (ngày 1 tháng 6 năm 2010,
Ngày Nhi Đồng Quốc Tể) VN chưa hề đụng một ngón tay nào vào việc
thực hiện đề án này. Vẫn “chưa có cuộc điều tra chính thức nào” thì
đào ở đâu ra “những con số cụ thể” (theo như yêu cầu của ILO) để tổ
chức này có thể lập dự án – với kinh phí 2,5 triệu euro – vừa được Cơ
quan Hợp tác và phát triển Tây Ban Nha cùng Tổ chức Lao động quốc tế ký kết, và
công bố ngày 29 tháng 3 năm 2010, tại Hà Nội.
Và nói tóm lại, theo nhận định của ông Nguyễn Thùy –
Phó Giám đốc Sở LĐ-TB&XH tỉnh Quảng Nam – là: “Các chương trình mục tiêu
bảo vệ trẻ em cũng chưa có và chưa hề có chính sách cụ thể để giải quyết lao động
trẻ em ngoài hình thức tuyên truyền mang tính thời vụ.”
Trẻ thơ lang thang. Nguồn: RFA
Hạn từ “thời vụ,” trong trường hợp này, lại có nghĩa rất cụ thể
như sau: khi nào có kinh phí (vài triệu Euros hay Dollars) thì vấn đề
sẽ trở thành bức xúc, nổi cộm, nhức nhối… Luật lao động, Luật BVCSTE,
Công ước quốc tế về quyền trẻ em… sẽ được mang ra hội thảo, bàn luận, mổ
xẻ tới nơi tới chốn.
Sau khi cam kết, ký kết, và tiền đã được “rót” xong
thì vấn đề (tự nhiên) cũng sẽ xẹp dần như một cái bánh xe cán phải
đinh. Mọi chuyện (rồi) lại đâu vào đó, cứ y như cũ, cho đến khi có
kinh phí mới.
Báo Nhân Dân, số ra ngày ngày 7 tháng 8 năm 1999, có bản
tin “Khen Thuởng Hai Em Nhỏ Muời Năm Cõng Bạn Ðến Trường,” với những chi
tiết sau:
“Em Huỳnh Duy Tài vì bị phế tật nên phải nhờ hai bạn là Bùi Ngọc Nha và Nguyễn
Qúi cõng đi học liên tiếp trong vòng muời năm qua. Tại Ðại Hội Cháu Ngoan Bác Hồ,
huyện Núi Thành tỉnh Quảng Nam (vào hôm 29 tháng 7 năm 99) các em đã nhân được
những tràng pháo tay nồng nhiệt nhất.”
Hơn mười năm sau, Tuổi Trẻ Online – đọc được vào ngày
10 tháng 3 năm 2010 – cũng có bài viết (“Năm Năm Cõng Bạn Đến Trường”)
với nội dung tương tự:
“Năm năm trôi qua, trên con đường đất dài hơn 3km từ buôn Mí ra Trường Lý Tự Trọng,
luôn có mặt bên H’Thương là cô bạn tốt bụng học cùng lớp H’Nơi. Dù trời nắng
thiêu đốt hay mưa gió lầy lội, H’Nơi vẫn miệt mài cõng bạn đến trường…”
Tất nhiên, tại Ðại Hội Cháu Ngoan Bác Hồ năm nay, các em
cũng sẽ được “biểu dương” và “khen thưởng.” Phải chi, Đảng và Nhà
Nước thay được “những tràng pháo tay nồng nhiệt” bằng những đôi nạng gỗ –
hay những cái xe lăn – thì đỡ khổ (cho các em) biết chừng nào!
Nỗi khổ của các em đã được bác Hồ nêu rõ, vào
ngày thành lập Hội Nhi Đồng Cứu Quốc, tại Cao Bằng, qua bài “Thơ Kêu Gọi
Thiếu Nhi”:
“Trẻ em như búp trên cành,
Biết ăn, biết ngủ, học hành là ngoan.
Chẳng may vận nước gian nan,
Trẻ em cũng phải lầm than cực lòng….”
(Báo Việt Nam Độc Lập, 106, số ra ngày 21 tháng 09 năm 1941)
Sáu mươi năm sau, từ Hà Nội, ký giả Huw Watkin của South
China Morning Post có bài tường thuật (“Children Sold Into Begging, Pimping
And Drug Dealing”) rằng “cứ năm đứa bé đang lê trên vỉa hè của ba mươi sáu phố
phuờng là có một đứa… ăn xin.” Bốn đứa còn lại, tất nhiên, cũng bận: đánh giầy,
bán vé số, bán ma túy, hay dắt mối…”
Đôi lúc, tôi trộm nghĩ: nếu ông Hồ Chí Minh đừng đi
(linh tinh) tìm đường cứu nước thì chưa chắc toàn dân đã được “hưởng”
Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc, và đất nước (chắc chắn) sẽ thiếu mất
một lãnh tụ anh minh; tuy nhiên, bù lại, trẻ thơ Việt Nam sẽ có được
một chiếc xe lăn hoặc đôi nạng để làm chân đi học – khi cần. Và cũng
sẽ không có đứa bé nào của xứ sở này phải trôi dạt đến những nơi
xa xôi – có tên gọi là “Mecca for paedophiles” (Thánh địa ấu dâm) – để
làm đồ chơi, cho thiên hạ mua vui.
Đ.. mẹ, sao mà mày … bao la quá vậy Hồ!
Tưởng Năng Tiến