Nhà văn Võ Phiến
|
1975- Năm đó tôi gặp lại anh thật bất ngờ.
Đúng vào cái buổi sáng đầu tiên tôi đặt chân lên đất Mỹ. Chiều hôm trước chúng
tôi được chuyển đến một trong bốn trung tâm tiếp cư cho nguời tỵ nạn, trại
Indiantown Gap thuộc tiểu bang Pennsylvania. Sáng sau tôi đến Processing Center
lập thủ tục nhập trại. Chúng tôi ở barrack số 8. Từ đó đến khu Trung Tâm tôi phải
cuốc bộ khá xa, trên một con đường có hàng cây phong thâm thấp trồng rất thẳng
hàng. Bên trái là dẫy mess halls một từng nền xi-măng nhô cao mái màu xanh lá cây
dùng làm phòng ăn cho dân tỵ nạn. Bên phải là bãi cỏ trống rất rộng hình như là
sân banh của trại lính. Tuy là tháng sáu mùa hè nhưng sáng hôm đó trời cũng
lành lạnh như đã vào thu. Khi đi qua cánh đồng cỏ trống tôi hít thở không khí của
nước Mỹ và cảm thấy không khí nhẹ tênh. Một con sóc từ trên đùm lá phong thoăn
thoắt đổ dọc thân cây, chạy băng mặt đường. Một con khác đứng cạnh thùng rác của
barrack, nó đứng thẳng trên hai chân sau đang gậm nhấm thức ăn bằng hai chân
trước, đôi mắt lơ láo nhìn tôi thách đố. Hồi đó tôi không quen thấy cái dạn dĩ
của những con thú hoang nên rất đỗi ngạc nhiên.
Làm xong thủ tục tôi đi lơ ngơ trong khu Trung Tâm nơi được
xem là “downtown” của trại Indiantown Gap. Ở đây người tỵ nạn đông vô kể. Đông
nhưng lại không ồn. Cố nhiên. Vui nhộn sao được những ngày tan tác ấy. Từng đám
từng đám thầm lặng đứng xếp hàng. Đâu đâu cũng thấy xếp hàng. Tôi cũng tấp vào
một đám đứng xếp không cần biết cái hàng này nó dẫn mình đến đâu. Nửa giờ sau
khi đã lọt vào trong phòng tôi mới biết đó là nơi phát chẩn quần áo cũ. Mỗi người
được chọn hai bộ. Tôi bước vào cái kho tôi tối dành cho đàn ông. Quần áo được
móc tươm tất trên những giá cao đặt song song, giữa là lối hẹp người đi phải
lách vai để tránh nhau. Tôi chọn cái sơ-mi ướm thử vào người. Không chắc ăn tôi
lại đưa thẳng hai cánh tay ra trước căng cái áo ra ngắm nghía, vô tình tôi bước
thụt lùi đụng mạnh vào đít một người đàn ông, chắc cũng đang lui cui thử áo như
tôi. Tôi quay hẳn người lại tính nói xin lỗi. Bỗng tôi kêu lên sửng sốt: “Trời!
Anh Võ Phiến...”
1958- Bút danh Võ Phiến tôi nghe đầu tiên từ cửa
miệng thầy giáo tôi. Trong một chuyến du ngoạn ở Tây Ninh mười bẩy năm trước
đó. Năm ấy tôi học lớp Đệ Tứ trường trung học Chu Văn An Sài Gòn. Cái tuổi còn
mộng mơ. Giờ học tôi thường lơ đãng nhìn ngoài cửa sổ có cây phượng đại thụ
thòng xuống chi chít những quả đen dài queo quắt. Nhưng vị thầy trẻ tuổi dậy
môn Việt văn của chúng tôi lại cứ bắt tôi về với thực tế. Thực tế lại không hay
ho gì lắm. Những ngày nóng bức từ nhà xí sát cạnh lớp một mùi khai khai thoảng
nhẹ qua hoà vào những lời giảng thơ văn của thầy. Biết tôi là con một nhà văn
tên tuổi, thầy cứ chắc mẩm là tôi phải xuất sắc về môn học của mình. Thầy không
để tôi yên. Bình giải thơ Nguyễn Công Trứ xong thầy cho chúng tôi 20 phút viết
phần dẫn nhập bài luận đề, thầy nói là sau đó thầy sẽ kêu tên một hai trò trong
lớp đọc to cho cả lớp nghe và cho điểm. Nói xong thầy liếc xéo về phía tôi. Tự
nhiên tôi có linh cảm chắc chắn thầy sẽ kêu tên mình. Thế là trong lúc hai thằng
bạn ngồi cùng bàn Đỗ Diễn Nhi và Tạ Huy Sáng đánh cờ ca-rô thoải mái thì tôi hốt
hoảng nặn bút viết. Mà viết phải cho hay để khỏi mất mặt ông cụ! Tôi nhớ là
mình mới đọc có dăm câu: “Ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang trong nền thi giới
nước ta...” tức thì ở dưới “đám nhà lá” đã có tiếng trầm trồ khen hay! Cái đám
vờ vĩnh đó chúng khen xúi tôi để lần tới thầy lại tiếp tục gọi tên tôi nữa.
Cuối niên học, thầy Việt văn của chúng tôi hướng dẫn lớp Đệ
Tứ B đi du ngoạn Tây Ninh. Chúng tôi lên đầy một xe buýt. Đến Tây Ninh chúng
tôi leo núi Bà Đen và thăm thánh thất Cao Đài. Đó là chuyến du ngoạn duy nhất
trong đời học sinh của tôi. Ngày hôm ấy theo lịch trình thì xe buýt phải quay lại
đón chúng tôi lúc hai giờ trưa để về Sài Gòn nhưng không biết sao đến ba giờ
cũng chưa thấy xe tới. Buổi trưa trời hè nóng gay gắt. Tôi mệt đừ ngồi bệt xuống
vỉa hè đường dưới bóng mát hiếm hoi của hàng cây sao cao vút . Trên một khúc đường
rộng đâm vào tòa thánh thất mấy chục học sinh với đồng phục quần xanh áo trắng
đứng ngồi tản mạn từng đám. Bỗng thầy Việt văn lại gần, thầy ngồi xổm nói chuyện
với tôi. Chúng tôi nói về sinh hoạt văn nghệ. Hồi đó ông cụ tôi đang chủ trương
nguyệt san Văn Hóa Ngày Nay. Trong câu chuyện thầy vụt hỏi tôi: “Em đã đọc Đêm
Mưa Cuối Năm chưa?” Tôi trả lời thầy là tôi chưa đọc. Thầy nói: “Em nên tìm đọc.
Võ Phiến viết hay lắm!” Võ Phiến? Cái tên lạ hoắc!
1975- Anh cũng sững sờ nhìn tôi lắp bắp: “Trời!
Anh...Anh...” Chúng tôi bàng hoàng nhìn nhau không thể tưởng tượng gặp lại nhau
trong cảnh huống này. Tôi chưa kịp hỏi thăm anh đã hỏi về hoàn cảnh tôi. Tôi
nói là vợ con tôi đã đi trước bằng máy bay của cơ quan DAO. Còn chúng tôi, bốn
quân nhân mà vợ con đã cùng nhau đi trước, đến sáng ngày 30 tháng 4 mới thoát
ra nhà Bè lên tàu trong đường tơ kẽ tóc. Chúng tôi lạc vợ con cả tháng trời và
gần đây mới biết là vợ con tất cả đang ở trại Pendleton, California. Còn anh
anh cho biết là anh chị đi bằng đường máy bay cùng với người con gái út và anh
chị có đứa con trai thứ ba đang du học ở bên Úc.
Thấy nói chuyện lâu trong phòng chật chội không tiện tôi rủ
anh chốc nữa vào câu lạc bộ trong khu Trung Tâm uống nước. Chúng tôi tiếp tục lựa
quần áo. Có tiếng anh than thở ở sau lưng: “Người mình nhỏ thó khó lựa quần áo
quá! Được cái sơ-mi màu ưng ý thì lại rộng thùng thình. Cái áo nào vừa vặn thì
màu sắc chim cò trông kỳ cục quá! Quần cái nào bụng vừa thì lại ngắn cũn ...”
Tôi đáp: “Anh còn đỡ hơi tôi. Anh còn có chiều cao.”
Vào câu lạc bộ chúng tôi ngồi vào một bàn trống. Không có ai
bán cà-phê ở đây. Ở góc câu lạc bộ có mấy cái máy bán nước ngọt có vẽ cái chai
Coca Cola. Nhìn cái máy “hiện đại” quá tôi không biết xử dụng thế nào nên chúng
tôi đành nói chuyện xuông. Tôi nói với anh: “Anh biết không. Ngày chót ở Sài
Gòn tôi tình cờ gặp Trần Phong Giao. Trên đường Trương Quốc Dung gần phi trường
Tân Sơn Nhất. Thấy tôi anh quặt xe mô-bi-lét, nói với tôi gần như hốt hoảng:
“Viên Linh đi rồi! Tôi thấy hắn ở phi trường.” – “Thế hả?” Anh chồm tới, có vẻ
lưu tâm. Tôi tiếp tục: “Lúc đó tôi vội vã quá! Vợ con chúng tôi đã lên máy bay
rồi mà bốn chúng tôi còn ở lại. Lúc đó tôi chỉ có đúng 15 phút để về nhà từ biệt
bà cụ. Tội nghiệp bà. Ông anh cả tôi từ bên Pháp đã gửi vé máy bay Air France
cho bà cụ. Chuyến máy bay ngày Hai tháng Năm. Không kịp rồi. Bà cụ sợ. Nội cái
tên bà Nguyễn Tường Tam...”
Nói đến đây tôi thấy trong mắt anh Võ Phiến lóe như có một
làn điện giật. Tự nhiên người anh như bừng dậy. Anh rối rít. Tôi hiểu ra. Té ra
sau nửa giờ nói chuyện với anh anh vẫn chưa nhận ra tôi là ai. Là một người tế
nhị anh không để hé lộ ra là anh không nhớ. Tôi sực nghĩ ra là từ lúc gặp anh mặc
dù vồn vã anh ít nói hơn tôi và những câu thăm hỏi của anh chỉ có tính cách
chung chung. Chắc hẳn là trước đó anh thấy tôi quen quen. Chắc hẳn là khi tôi
nhắc đến Trần Phong Giao thì anh cũng đoán là giữa anh và tôi có tương quan văn
nghệ. Nhưng anh không nhớ đích xác. Cho đến lúc cái tên của ông cụ được bật ra.
Mà anh không nhớ cũng phải thôi. Trước đó tôi chỉ gặp anh có hai lần, hai lần
đó cũng đã xa rồi. Còn tôi tôi nhớ ra anh ngay cũng không gì lạ. Bởi vì tôi mê
văn anh đã từ lâu, lâu lắm. Phải nói một cách thành thực là hồi đó tôi mê đọc
văn anh còn hơn là tôi đọc văn của chính ông cụ tôi. Bởi vì văn anh gần gũi với
tôi hơn. Anh có cái nhìn sâu sắc của Nhất Linh, nhưng là một Nhất Linh nhìn vào
đời thường của cái không gian chúng tôi đang sống.
Lúc đó cả anh và tôi đều không thể có bất cứ một dự tính gì
về tương lai. Ngay cả một nơi để định cư cũng không biết chắc được. Nhưng chúng
tôi đều biết là thế nào cũng phải liên lạc với nhau. Anh cho tôi địa chỉ người
con của anh ở bên Úc. Tôi cho anh địa chỉ của ông anh tôi ở bên Pháp. Rồi chúng
tôi chia tay.
1959- Có tiếng chân bước lên cầu thang. Tôi
đang ngồi học bài trên lầu hai chung cư chợ An Đông Sài Gòn. Đó là bước chân
ông cụ. Bao nhiêu năm sống chung trong căn phòng hẹp ấy chúng tôi có thể phân
biệt tiếng bước chân của từng người lên lầu. Năm đó tôi bỏ trường Chu Văn An để
học nhẩy lên lớp Đệ Nhị ở trường tư thục Hoàng Việt đường Phan Đình Phùng, trường
này vừa xây xong mới được khánh thành. Ông cụ đặt cái cặp da xuống sàn, ông ngồi
xuống cái ghế vải quen thuộc của ông (Chính trên cái ghế này bốn năm sau ông uống
liều thuốc ngủ Belladénal kết liễu đời mình). Tôi đưa ông xem cái tờ quảng cáo
của trường Hoàng Việt. Tờ quảng cáo nêu rõ ông là Cố Vấn của trường. Tôi ngợ là
người ta lạm dụng tên tuổi ông. Ông hỏi tôi những ai trong ban sáng lập trường.
Tôi đọc nhiều tên. Có Trần Bích Lan, có Trần Văn Tuyên, có LM Hoàng Quỳnh... Và
nhiều người nữa. Ông không nói gì.
|
Tranh của Nhất Linh vẽ ngày 14 tháng 12, 1958
|
Ông cụ mở bia uống. Bière Larue đầu cọp. Ông châm điếu
Bastos xanh. Trông ông mệt nhọc nhưng thoải mái. Tôi với cuốn truyện mỏng tang
trên kệ sách đưa ông rồi nói: “Con đọc rồi. Hay lắm!” Ông cụ bỏ cuốn truyện vào
trong cặp da, cái cặp mà lúc nào ông cũng tha đi theo người, trong cặp có nhiều
cuốn sách truyện và những tài liệu lỉnh kỉnh. Thời gian này ông đang cố viết
cho xong tập biên khảo: “Viết và Đọc Tiểu Thuyết.” Cuốn truyện mỏng kia tôi vừa
đưa trả ông cũng được lôi ra từ cái cặp ấy vào tuần lễ trước.
Ông cụ tôi về nhà rất thất thường. Ông làm việc say mê và
thường ngủ lại ở toà báo. Thảng hoặc ghé nhà ông thường hỏi việc học hành của
tôi và đôi lúc, như tuần trước, ông và tôi bàn chuyện văn nghệ. Cũng hiếm thôi.
Mặc dù hồi đó tôi có viết ít truyện ngắn đưa ông xem và ông rất thích nhưng ông
không hề có ý khuyến khích con cái đi vào con đường của ông. Dù là đường chính
trị hay văn nghệ. Ông cụ cho con cái tự do tuyệt đối trong việc lựa chọn đời
mình. Mặt khác ông cụ nhìn người rất tinh. Đó là biệt tài của ông. Năm ngày trước
khi chết ông đến nhà in Trường Sơn đánh máy tờ Ủy Quyền: “Tôi, Nhất Linh Nguyễn
Tường Tam, giám đốc nhà xuất bản Phượng Giang và Đời Nay, ký tên dưới đây xác
nhận rằng: trong khi tôi vắng mặt (bất cứ vì lý do gì) thì con tôi là Nguyễn Tường
Thiết sẽ thay thế tôi điều khiển hai nhà xuất bản kể trên và quyết định việc xuất
bản các tác phẩm của tôi. Làm tại Sài Gòn ngày 2 tháng 7 năm 1963.” Suốt 40 năm
qua sáu chữ trong dấu ngoặc đơn ám ảnh tôi... nó ám ảnh tôi quay quắt.
Trong câu chuyện nhân bàn về các nhà văn ở miền Nam và sực
nhớ tới lời thầy Việt văn ở Tây Ninh tôi nói: “Cậu phải đọc Võ Phiến. Hay lắm!”
Tôi nói càn như vậy chứ thực sự lúc ấy tôi cũng chưa đọc truyện của ông ta.
Không ngờ ông cụ lại nhìn sâu vào tôi hỏi lại: “Con đã đọc chưa?” Tôi nói chưa
đọc nhưng nghe nói là hay. Ông mở cặp da lấy ra hai tập sách mỏng. Thần Tháp
Rùa của Vũ Khắc Khoan và Mưa Đêm Cuối Năm của Võ Phiến. Đưa tôi cuốn sau, ông
nói: “Con đọc thử xem. Viết được lắm!”
Tôi có một tuần để đọc. Lần đầu tiên tôi làm quen với dòng
văn của anh. Nhưng phải thú thực là tôi bị chia trí hơi nhiều. Bởi trong lúc đọc
văn anh tôi có lẫn cái nhìn của ông cụ. Cầm cuốn sách mỏng trên tay - Mưa Đêm
Cuối Năm của Võ Phiến do cơ sở Tự Do xuất bản - tôi lật từng tờ, từng tờ chi
chít những ghi chú những lời bình phẩm của ông cụ. Nét chữ nhỏ nhít của ông gần
như chiếm hết lề sách. Ở chỗ này ông phê: “Nhận xét rất sắc!” Ở trang nọ ông phết:
“Hay lắm!” Chỗ này: “Đoạn này nên thêm chi tiết. Sẽ hay hơn!” Chỗ kia: “Văn cầu
kỳ. Lập dị.” Chỗ khác: “Lại lập dị...” Tôi không ngờ ông cụ tôi đọc kỹ thế!
2003- Bốn mươi bốn năm sau vào một ngày cuối
năm Ngọ vợ chồng chúng tôi đến Los Angeles thăm anh chị Võ Phiến. Trước khi đi
chúng tôi ghé khu Bolsa. Nhà tôi lựa một bó hoa phong lan màu nghệ rất lạ và đẹp
làm quà biếu anh chị. Hoa lan vốn là loài hoa tiên cảnh của ông cụ. Trên xa lộ
đến nhà anh tôi cứ bị ám ảnh bởi một món quà khác và cứ tiếc mãi phải chi tôi
có trong tay để tặng anh. Hẳn là anh sẽ xúc động xiết bao! Đó là cuốn sách của
anh với chi chít những hàng chữ chăm chút của ông cụ. Trong cái tiếc của tôi
còn có lẫn một chút hận mình, một chút xót xa. Bởi vì chính tôi đã cầm nó trên
tay, vào cái ngày cuối hãi hùng 29 tháng 4 năm 1975 ấy, tính bỏ chung vào cái
bao nylon cùng với bản thảo cuốn Xóm Cầu Mới và Giòng Sông Thanh Thủy để đem
đi, nghĩ sao tôi lại bỏ xuống.
1973- Lần đầu tiên tôi gặp anh tính đến nay đã
vừa đúng ba thập niên. Năm đó tôi phụ trách nhà xuất bản Phượng Giang. Cuốn
sách đầu tiên là cuốn Xóm Cầu Mới của ông cụ. Cầm cuốn sách nguyên tinh mới ra
lò, tôi nghĩ ngay đến việc tìm anh để tặng sách. Hồi đó sáchVõ Phiến tôi đều đọc
nhẵn, ngay cả cuốn truyện dài Về Đâu của anh đăng từng kỳ trên báo Bách Khoa
tôi cũng theo dõi không bỏ sót một số nào. Nhưng tôi vẫn chưa có cơ hội gặp
anh, một nhà văn lúc này đã nổi tiếng và cũng là người tôi hâm mộ. Buổi sáng ấy
tôi lái xe gắn máy đến Bộ Thông Tin đường Phan Đình Phùng nơi anh làm việc.
Hình như anh làm Sở Kiểm Duyệt hay Điện Ảnh gì đó. Tôi nhớ là mình lên lầu, đi
vòng một cái hành lang, văn phòng anh ở mé phải. Tôi gõ cửa. Gặp anh tôi hơi khớp.
Không phải theo cái nghĩa một độc giả lần đầu được gặp người mình ái mộ đâu.
Lúc đó óc tôi thấm đầy những nhân vật của anh. Tôi sợ bị anh nhìn tôi hệt như
anh nhìn các nhân vật trong truyện của anh vậy. Anh tinh quá đi! Nhân vật nào
trong cái nhìn sắc nét của anh cũng như bị lột truồng ra, cũng lộ những chỗ hớ
hênh!
Tôi yên tâm ngay khi nói chuyện với anh. Mặc dù anh hơn tôi
những 15 tuổi nhưng anh xem tôi ngang hàng. Chúng tôi xưng hô anh tôi trong
tình văn nghệ thân mật thoải mái. Mới bước vào nghề xuất bản, tôi có rất nhiều
câu hỏi về tình hình sách truyện trong nước cũng như kinh nghiệm ngành xuất bản
của anh. Tôi đã không học được một chút gì kinh nghiệm từ ông cụ, bởi lẽ mười
năm trước đó khi ông mất tôi mới là một sinh viên khoa học không hề nghĩ một
ngày nào đó mình sẽ đi vào ngành sách. Gặp anh tôi thấy Võ Phiến con người cũng
y như văn phong anh. Chừng mực, điềm đạm, tế nhị có phần hơi quá nhã nhặn, lễ độ
nữa. Tôi chỉ không thấy được ở anh lúc ấy cái duyên thầm nó thể hiện rất tự
nhiên trong văn anh, nó bật lên ngay cả trong cách anh xử dụng ngôn từ. Còn về
sự tinh tế của anh thì hôm đó tôi được dịp nhìn thấy. Sau khi nói chuyện khá
lâu tôi sực nhớ là anh đang làm việc và tôi đã lấy thì giờ của anh lâu quá. Tôi
ngừng lại, tính xin cáo từ. Hai cánh tay anh đặt trên bàn giấy. Tôi thấy anh
nhìn thoáng vào cổ tay trái của mình có đeo đồng hồ tay. Rất nhanh, dường như sợ
tôi hiểu cái nhìn đó như một cách nhắc nhở khách, anh chăm chú nhìn vào cổ tay ấy
lâu hơn rồi anh đưa ngón trỏ bàn tay phải búng một vết bụi gần khuy manchette
trên chiếc tay áo trắng tinh.
Cầm trên tay bộ truyện Xóm Cầu Mới anh tiễn tôi ra tận ngoài
hành lang. Trên đường về vương lại trong tôi giọng nói của anh, giọng đặc biệt
địa phương của người miền Bình Định. Nó lạ tai với tôi bởi vì hồi đó giọng miền
Trung tôi chỉ quen nghe giọng Huế thảng hoặc giọng Quảng thôi. Thấm cái giọng
nói của anh, tự nhiên - như thể cái giỏ cua đồng của chị Bốn Thôi hễ động mạnh
thì những con cua trong giỏ cựa mình kêu rạo rạo - những nhân vật trong truyện
Võ Phiến, ông Ba Thê, anh Bốn Thôi, ông Bốn Tản, chị Bốn Chìa Vôi, bà Hai Hồ,
anh Ba Càng Cua... nay cũng trở mình trong tôi kêu lên, gọi nhau rối rít bằng
cái giọng đặc biệt của miền đất khô mặn ấy, chúng mới linh hoạt làm sao!
Hai hôm sau, trước sự ngạc nhiên của tôi, anh Võ Phiến đến
thăm tôi ở chợ An Đông. Anh đến vào buổi tối, chắc là theo địa chỉ nhà xuất bản
Phượng Giang tôi ghi sau cuốn sách Xóm Cầu Mới. Cuốn sách đó tôi đã đem biếu
đôi ba chục người. Anh là người duy nhất đã tìm đến tôi trả lễ và để tặng tôi
cuốn sách anh mới ra, cuốn tùy bút Đất Nước Quê Hương. Sự ân cần đối với một
người kém xa tuổi anh mà tôi tưởng rằng chỉ có nơi ông cụ tôi khiến tôi rất cảm
động.
1976- Hôm đó nhân rạp hát gần nhà có chiếu
phim cũ Cuốn Theo Chiều Gió ấn bản mới vợ chồng tôi kéo đi xem, nhân thể cho biết
mặt mũi rạp xi-nê ở nước Mỹ ra sao. Hồi còn ở Sài Gòn chúng tôi mê xem xi-nê lắm.
Rạp Rex, rạp Eden, rạp Vĩnh Lợi, rạp Đại Nam... Lần nào cũng thế hết phim ra khỏi
rạp là cảnh vật bên Mỹ đứt rụp, đối diện ngay với thực tại là cái trưa hè nắng
chói chang, cái bùng binh Sài Gòn đông ngụt người. Lần này ra khỏi rạp, đứng
trên thềm cao đảo mắt tìm chiếc xe hơi của mình đậu trong khu parking vắng hoe
của Lakewood Mall, thốt nhiên tôi lặng người. Thoáng cái tôi không biết là mình
đang ở Mỹ vừa đi ra khỏi rạp xi-nê hay là tôi đang ở Việt Nam vừa bước vào
trong rạp! Cứ như thế... như thế... năm đầu tiên của tôi ở Mỹ đời sống trôi đi
mơ màng như không thực. Đầy những khắc giây những giấc mơ Trang Tử thời đại!
Tôi viết thư cho anh. Hồi đó cả anh và chúng tôi đều chọn miền
cực bắc nước Mỹ để định cư. Nhiều bức thư bay qua lại giữa hai tiểu bang lạnh lẽo
Minnesota và Washington. Anh trả lời tôi ngay. Bức thư anh mào đầu bằng một lời
gọi: “Anh Thiết ơi!” nghe như vọng từ vùng quê hương xa lắc... “Đấy anh xem!
Anh là người của thành phố đã quen lối sống thị tứ mà còn thấy ngỡ ngàng. Huống
hồ chúng tôi...” Tôi hiểu anh muốn nói gì. Trước kia những nhân vật trong truyện
của anh - hay chính anh - đã từng ngỡ ngàng lạc lõng ngay trong lòng quê hương
mình, ngay trong lòng thủ đô Sài Gòn. Từ Gò Vấp, từ Hoà Hưng vọng về Bình Định,
về Quy Nhơn... những cánh Thư Nhà... lại Thư Nhà...
Tôi mường tượng anh đứng ở giữa cái Mall ấy, ngơ ngác...
Năm đầu định cư tôi vớ được nhà thơ Xuân Hiến, ở cùng thành
phố. Kể cho anh Hiến nghe về cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh ở trại Pennsylvania,
anh Hiến mừng quá rối rít xin tôi địa chỉ anh. Hóa ra hai anh Xuân Hiến, Võ Phiến
đã biết đã thân nhau từ lâu, hồi còn làm tờ Bách Khoa.
Anh Võ Phiến ơi! Để tôi kể anh nghe đôi chút kỷ niệm với người
bạn văn đã khuất bóng của anh. Tính anh Xuân Hiến xuề xòa lắm, anh đã biết. Năm
ấy anh khoe với tôi anh bắt được cái job hay lắm. Anh làm janitor cho một trường
đại học cộng đồng, “ca” đêm. Ban ngày anh ngủ, tối anh đi làm. Giờ Mỹ và giờ Việt
Nam như đêm với ngày. Anh tâm tình với tôi, cảm động: “Mình ngủ với quê hương,
mình thức với quê hương.”
Hồi đó tôi mê đi câu cá lắm. Đến bây giờ vẫn còn mê. Tôi nói
với anh Hiến là giá tôi mê viết như tôi mê câu thì chắc là tôi cũng sẽ thành
văn sĩ le lói như ai. Một hôm nọ tôi mới mào chuyện đi câu với anh thì chị Xuân
Hiến đã đâm bổ vào, chị xoắn xuýt. Thế là tôi có ngay một người bạn câu mới,
còn mê câu hơn cả tôi. Một bữa đứng câu với chị ở chân cầu Purdy, câu đã nửa
ngày trời mà chả được con nào, tôi nghỉ tay. Từ thành phố Tacoma đến Purdy cũng
xa lắm đến 20 dặm. Từ sáng sớm thấy chị đi câu có một mình tôi cứ đinh ninh chị
lái xe lấy. Không ngờ thấy tôi nghỉ, chị nói, tỉnh khô: “Anh Hiến chở tôi đi,
anh ấy ở trong xe, chỗ parking ấy!” Tôi giật bắn người: “Trời! Chị để anh ấy chờ
những bốn tiếng đồng hồ trên xe... Sao chị ...” – “Anh đừng lo cho anh Hiến. Giờ
này là giờ ngủ của ảnh!” Tôi chạy bổ lên trên cầu đến parking tìm anh. Thấy tôi
anh mừng lắm. Trông anh không có vẻ gì là người mới ngủ dậy, anh tỉnh táo, mặt
tươi rói. Vừa mở cửa xe anh vừa giơ cao một xấp giấy: “Tôi vừa mới viết xong được
một truyện ngắn! Thú lắm! Đang nghĩ đến chuyện gặp ai để khoe, thì may quá gặp
anh! Chúng mình tìm chỗ nào ngồi tôi đọc anh nghe!” Trông anh sung sướng thấy rõ.
Mấy tiếng đồng hồ ngồi trên xe cầm bút hạnh phúc của anh cũng phơi phới ngang
ngửa với chị Hiến cầm cần câu dưới chân cầu. Chúng tôi đi kiếm chỗ ngồi trên ghềnh
đá, nhìn ra vịnh Puget Sound. Trời trong vắt. Những con chim hải âu bay lượn
vui nhộn trông cũng rạo rực như anh Xuân Hiến. “Đây tôi đọc anh nghe. Truyện có
cái tựa Cái Sọt Rác.” Gió thổi từ vịnh ùa vào lật phật mấy tờ giấy anh cầm. Vừa
căng giấy anh vừa đọc tôi nghe. Lẫn trong truyện anh kể tôi nghe có tiếng kêu
chíu chíu của bầy hải âu bay là trên đầu, tiếng sóng đập vào ghềnh đá rồi rút
ra choàng vào chúng tôi những bụi nước mặn li ti. Đêm đêm, một mình, anh Xuân
Hiến sống trong thế giới câm lặng của đồ vật trong những văn phòng trống vắng của
trường đại học ấy. Công việc quét dọn quá nhàn nhã, mất chừng hai giờ cho một
việc trả lương tám tiếng. Khi anh đến chỗ làm, cái sinh hoạt nhộn nhịp của văn
phòng đã dứt từ lâu. Khi anh trở về nhà, cái sinh hoạt ấy còn lâu mới bắt đầu.
Đêm đêm anh nghe bước chân mình đơn độc trên hành lang, trong văn phòng. Xẹt
qua bàn giấy này anh nhấc xem một khung ảnh gia đình. Ghé bàn kia anh phát giác
hai ba cái “cấp” cà-phê cái nào đáy cũng đen ghét. Có bàn ngăn nắp có bàn thật
bừa đến phát ngợp. Anh tẩn mẩn quan sát dòm ngó đồ vật trên bàn giấy rồi tưởng
tượng con người ngồi sau bàn ấy phái tính, trẻ già, tính tình... Còn những cái
sọt rác nữa chứ! Chúng tố cáo nhiều thứ lắm. Chuyện công chuyện tư nằm trong đó
cả. Một bữa nhẩn nha anh lấy hai ngón tay gắp lên tờ giấy đã vò nhầu mở ra đọc
anh khám phá một bức thư tình viết dang dở. Qua sọt rác ấy anh theo dõi mối
tình của cô gái trong nhiều tháng... Những bức thư cô viết dang dở nằm trong sọt
rác đã đành, ngay cả các bức thư khác tuồng chữ, bức thư hồi âm, cũng cùng
chung số phận. Rồi đêm này, tháng nọ trôi qua, cái thế giới ban ngày của văn
phòng ấy hiện rõ như chắc nịch trong trí tưởng của anh Xuân Hiến. Cho đến một
hôm...
Anh Võ Phiến à, ông cụ tôi ngày xưa đã cầm kéo cắt cái xoẹt
khúc đuôi truyện ngắn Đôi Guốc Trắng của nhà văn Nhật Tiến. Truyện này đang
trên Văn Hoá Ngày Nay có kết cục bỏ lửng đâm ra hay hay. Tôi cũng bắt chước, ngừng
ngang xương Cái Sọt Rác của anh Xuân Hiến ở đây.
1981- Gọi tên bốn mùa. Mùa nào cũng mưa. Đó là
tiểu bang xanh chúng tôi ở. Cuối năm ấy anh chị Võ Phiến từ California lên
thăm. Sau có hai năm ở Minnesota anh chị đã tìm về miền nắng ấm để định cư. Còn
chúng tôi vẫn gắn bó với tiểu bang ủ ê này. Đêm hôm đó trời đổ lạnh. Buổi chiều
đã có dấu báo hiệu. Trời âm u mà nhiệt độ hạ thấp. Tối nay tuyết sẽ rơi. Điện
thoại reo. Tiếng anh Xuân Hiến: “Lát nữa chúng tôi ghé thăm anh chị. Có anh Võ
Phiến lên chơi!” Trước khi cúp, tôi còn nghe ở phông tiếng nói líu ríu của hai
chị. Trời! Tôi nghĩ. Anh chị Võ Phiến đã quá hãi cái lạnh, cái tuyết của
Minnesota, đã trốn nó từ bốn năm nay. “Cái bang” này thiệt tệ! Không điệu với
khách quý của chúng tôi chút nào. Để chữa lại tôi nghĩ ngay đến việc sưởi ấm
phòng khách để tiếp anh. Ra ga-ra tôi check mấy khúc củi. Lâu không dùng củi ẩm
quá, không khéo đốt không ra lửa mà khói um ra nhà, khóc cả đám! Tôi lái xe ra
Safeway gần nhà tha về năm sáu khúc Duraflame. Bảo đảm cháy gọn. Ngọn lửa trong
lò sưởi vừa bùng lên thì có tiếng xe hơi đỗ ở ngoài. Anh Xuân Hiến dẫn anh Võ
Phiến vào nhà tôi qua ngã ga-ra. Cả hai anh trang bị kỹ lắm, mũ, khăn cổ, áo
măng-tô. Tôi nhìn anh Võ Phiến đang phủi tuyết lấm tấm trên áo. Sáu năm không gặp
tôi thấy anh mập ra. Anh trả lời: “Mập bịnh đó! Không tốt đâu...” Nhà tôi trách
anh Xuân Hiến: “Hai chị đâu? Sao anh không chở hai chị đi luôn!” – “Thì cũng
tính đi đó. Nhưng thấy trời sắp tuyết hai bà sợ...”
Hơn hai mươi năm đã qua tôi không nhớ rõ trong hai tiếng đồng
hồ ở nhà tôi cái đêm tuyết lất phất rơi đó tôi đã nói những chuyện gì với anh.
Tôi mừng là không nhiều. Tôi cứ chạy lăng xăng lo nhóm cái lò sưởi, lo tiếp củi,
giữ cho cái ngọn lửa luôn luôn toả hơi nóng tối đa. Lâu lâu tôi góp với hai anh
một tí rồi chạy đi. Nhưng một hình ảnh rất đẹp ghi sâu trong ký ức tôi. Hình ảnh
đêm đó anh Xuân Hiến và anh ngồi trên cái love seat ấy dưới ánh hồng của lò sưởi
đỏ rực mê mải nói chuyện với nhau. Các anh nói chuyện cũ, cái thời báo Bách
Khoa đường Phan Đình Phùng của Sài Gòn thuở nào, cái thời không có tôi tham dự.
Sáng hôm sau tôi gọi cho anh Xuân Hiến thì anh cho biết anh
chị Võ Phiến đã rời từ sáng sớm. Anh chị đi xe hơi. Đi vội vì đài khí tượng
tiên đoán một trận bão tuyết sẽ đến trong ít ngày tới. Anh chị cần phải vượt
qua một khúc đèo dài khủng khiếp ở tiểu bang Oregon trước khi cơn bão ập xuống.
Ngày mười tháng chín năm sau anh Xuân Hiến qua đời. Cái chết
của anh bình thản đôn hậu như con người anh. Một vài người bạn rủ anh đi chùa
Việt Nam ở Seattle. Trong lúc chờ để mạn đàm với Thầy trụ trì, anh ngồi ngủ gục
trên ghế xa-lông. Chuyện này rất thường xẩy ra nên tất cả để yên anh ngủ. Không
ai biết anh bị stroke. Chở đến nhà thương anh vẫn mê man. Chị Xuân Hiến nhờ tôi
thông báo cho các bạn văn của anh dưới Ca-Li. Khi anh Lê Tất Điều bay lên đến
nhà thương anh vẫn không tỉnh. Cho đến khi anh ra đi...
Sáu năm sau, tôi nhận được cuốn sách Tùy Bút Võ Phiến do nhà
Văn Nghệ xuất bản. Trang đầu có lời đề tặng: “Thân mến gửi anh chị Nguyễn Tường
Thiết. Ghi nhớ một đêm ở Tacoma, bên lò sưởi. Võ Phiến. Los Angeles XII-1987.”
Vâng. Cái đêm đó thật đáng ghi nhớ... nhớ một người bạn đã ra đi quá sớm. Anh
Xuân Hiến.
2003- Một buổi sáng đầu năm Mùi. Tôi hẹn gặp Tạ
Huy Sáng ở tiệm phở Nguyễn Huệ. Quận Cam còn vương không khí Tết. Sau bốn mươi
lăm năm tôi mới gặp lại hắn, thằng bạn ngồi cùng bàn lớp Đệ Tứ Chu Văn An thủa
nào. Chúng tôi cũng trên 60 cả rồi. Nhưng gặp nhau vẫn “toa,” “moa” loạn xị như
xưa. Tôi bảo nó: “Toa chuẩn bị đi! Gập thầy Lưu Trung Khảo. Thầy Việt văn ấy
mà. Moa hẹn thầy 10 giờ ở Coffee Factory.” Hắn dẫy nẩy: “Chết cha! Moa ăn nói
làm sao với thầy. Toa ở xa còn có lý. Moa ở ngay đây cả chục năm mà chưa tìm gặp
thầy, thầy chửi chết!” Rồi hắn lo lắng: “Quên cha nó mất rồi, không nhớ hồi đó
mình xưng em hay là xưng con với thầy nhỉ?” – “Em iếc gì. Con! Thầy gọi mình là
em thì OK. Còn mình phải xưng con với thầy. Hiểu chưa?”
Chúng tôi chờ mãi mới có bàn trống. Sáng Chủ Nhật thật đông.
Tôi nghe nói chỗ này là một La Pagode của Sài Gòn ngày nào. Lần đầu tiên tôi đến
đây nhưng cái tên Coffee Factory tôi đã đọc đâu đó trong một hai truyện ngắn mới
đây. Truyện nào nhỉ? à, một chuyện tình của cô cháu gái tôi, nhà văn Thơ Thơ.
Thầy Khảo tìm bàn chúng tôi dễ dàng. Thầy nhận ngay ra chúng tôi. Chỉ vào thằng
bạn tôi, thầy nói: “Sáng đó phải không?” – “Vâng, con đây. Thầy còn nhớ?” Tôi
chịu trí nhớ của thầy. Bốn mươi lăm năm trước, tôi nhớ thầy nhìn sổ điểm danh để
gọi trả bài có lần thầy nói to cho cả lớp: “A, cái tên anh này ghê lắm đây! Đã
Huy rồi mà lại còn Sáng nữa! Để xem thử anh này có sáng dạ như cái tên gọi
không!”
Bên tách cà-phê nóng chúng tôi ôn chuyện cũ. Thời của cái đời
học sinh vô tư. Thầy nói đó là khoảng thời gian thầy hãnh diện nhất trong đời
thầy. Là giáo sư của một trường danh tiếng Thủ Đô thầy chứng kiến những đứa con
yêu của thầy sau này là tinh hoa của một nửa phần đất nước. Đặc biệt thầy nhớ
nhất học trò của lớp Đệ Tứ B niên học 1957-58 vì đó cũng là năm đầu tiên thầy dậy
ở trường Chu Văn An. Thầy nhắc đến tên nhiều bạn học cùng lớp mà chính tôi
không biết: “Em nhớ Lê Tất Luyện không? Chồng của nhà phê bình văn học Thụy
Khuê ở bên Pháp đấy!” Tôi nói: “Chắc thầy nhớ Đỗ Diễn Nhi ? Ngồi cùng bàn con.
Hiện ở Washington DC.” Thầy trò nhìn nhau cười. Ai mà quên hắn nổi. Thằng bạn
sau này, thời tướng Kỳ, trở thành nhân vật “nổi đình đám” nhất của lớp Đệ Tứ B
chúng tôi.
Tôi nhắc thầy Khảo về kỷ niệm chuyến du ngoạn Tây Ninh và
nhân đó đến anh Võ Phiến. Vợ chồng tôi tuần trước mới đến thăm anh chị ở Los
Angeles. Hôm đó chúng tôi ở chơi anh gần suốt một ngày. Cũng là lần đầu tiên kể
từ khi quen biết anh tôi mới có dịp tâm tình với anh lâu nhất. Chúng tôi bàn về
đủ chuyện. Về đủ mọi đề tài. Nhưng dù là chuyện gì thì rốt cuộc anh cũng đi đến
cái kết, cũng quy về cái “tình người.” Tôi có cảm tưởng “tình người” như một ám
ảnh mới của anh. Cái tình người bây giờ nó không được như xưa. Anh nói giọng
luyến tiếc. “Anh không biết đâu bây giờ họ kèn cựa, họ gấu gó lắm! Không có trật
tự có trên dưới gì ráo trọi!”... “Anh có đọc hồi ký của Hồ Dzếnh chưa. Để xem
người xưa họ xử đẹp như thế nào. Cái lòng của họ thế nào. Trên chuyến tàu Hải
Phòng - Hà Nội, Hồ Dzếnh lúc đó mới tập tễnh viết văn, còn đang đọc lại tập bản
thảo của mình, thì một người hành khách lên nửa đường, từ ga Cẩm Giàng, tới ngồi
cạnh. Toa tàu hôm đó vắng. Người khách hỏi mượn xem tập bản thảo. Đến khi tàu từ
từ dừng lại ở ga đầu cầu Long Biên, chuẩn bị xuống, người khách ướm hỏi có thể
mang về nhà đọc được không và hứa một tuần sau sẽ đem trả tận nhà. Vì còn giữ tập
bản thảo viết lần thứ nhất nên Hồ Dzếnh đưa ngay. Sau khi đưa địa chỉ của mình
Hồ Dzếnh sực nhớ ra là không lấy địa chỉ của người khách lạ thì người ấy đã xuống
tàu. Đúng một tuần sau, người khách đem trả tập bản thảo, niềm nở bắt tay Hồ Dzếnh
và ngỏ ý, nếu ông muốn, sẵn sàng viết cho lời tựa. Lúc đó người khách mới tự
xưng tên: Thạch Lam!”... Kể xong câu truyện, anh lập lại câu anh đã nói, vẫn giọng
u hoài: “Bây giờ họ kèn cựa nhau, họ gấu gó lắm... không được như người xưa!”
2002 - Chúng tôi tất cả chín người chất đầy một
xe van. Mùa Thu năm ấy chúng tôi hai gia đình cùng đi chung về Việt Nam. Gia
đình anh Việt và tôi đã chiếm bảy người. Ngoài ra lại có thêm Maya, cô bạn Mỹ của
Thi, con gái tôi, đi cùng. Từ Sài Gòn chúng tôi thuê xe van đi Hội An, chủ đích
là đưa vợ con chúng tôi đến thăm mộ ông bà cụ mà di cốt đã được chôn cất vào
mùa hạ năm trước trong nghĩa trang riêng của dòng họ Nguyễn Tường. Ngồi ở băng
trước của xe van, cạnh tài xế, là đích tôn của dòng họ, nhà văn Tường
Hùng.
Sau khi ở lại Nha Trang chơi hai ngày, phái đoàn chúng tôi
tiếp tục hướng bắc quốc lộ 1. Khúc đường từ Nha Trang đến Hội An cực kỳ xấu. Suốt
ngày trời chúng tôi bị nhồi lên nhồi xuống trên chiếc xe chật hẹp. Mấy đứa con
chúng tôi sinh đẻ hoặc lớn lên ở Mỹ, lần đầu tiên về Việt Nam, kêu la oai oái.
Trời lại nóng, chúng tôi gật gưỡng. Con Thi ngủ miệng há hốc, chẩy cả nước dãi.
Maya đưa máy hình chụp con Thi lia lịa. Mấy đứa nhỏ thật tức cười. Suốt chuyến
đi chúng phí phim vì những cảnh tào lao. Bao nhiêu cảnh đẹp không chụp chỉ chụp
toàn những chó, những bò, những đứa bé đen đủi...
Xe lên một cái đèo thấp đến đỉnh rồi lại bắt đầu đổ xuống. Ở
băng trước có tiếng nói của anh Hùng: “Thành phố nào đẹp quá vậy?” Chú tài xế
trả lời:
- Thị xã Qui Nhơn!
Tôi nhỏm dậy. Từ trên tầm cao thị xã Qui Nhơn hiện ra nguyên
vẹn bên bờ Thái Bình Dương nước biển một màu xanh ngắt. Quốc lộ phía trước trải
xuống một đường vòng cung ôm lấy thị xã. Những cây dừa, những hàng thùy dương
xen lẫn vào những mái ngói đỏ tươi. Từ xa Qui Nhơn vụt hiện trong tôi như một cảnh
trí giả, xinh xắn như món đồ chơi. Tôi giật lấy máy ảnh của Maya tính chụp một
pô thì không kịp nữa. Chiếc xe đã xuống đến chân đèo. Thị xa vụt khỏi tầm mắt.
Tôi nghĩ ngay đến anh. Anh Võ Phiến ạ. Đây là thị xã của
anh, đúng ra của cậu học trò họ Đoàn bẩy mươi năm về trước. Thị xã đã nuôi anh
những ngày thơ ấu, đã được nhắc tới trong nhiều bức Thư Nhà của anh. Với tôi, mặc
dù đã nhiều lần trong đời nhìn thấy nó từ tầm xa, nhưng tôi chỉ ghé sống với nó
thực sự được có một đêm, đêm ấy cũng đã rất xa rồi, hồi đó tôi còn là một sinh
viên, nhân một chuyến ra Trung để cứu lụt.
Tôi nhớ gì về một đêm ngắn ngủi ghé ngủ ở cái thị xã hẻo
lánh của miền Trung ấy? Không gì cả ngoài âm vang của những tiếng chim kêu. Tiếng
chim kêu? Vâng. Thị xã mùa biển động náo lên vì những bầy chim từ ngoài hòn bay
về, chúng bay tơi tả bay rối loạn trên cái bồn nước của thị xã. Những cánh én
bay khinh khoái trong ráng chiều, những cánh én nhào lộn khi bình minh ló rạng.
Tôi nhường lời diễn tả cho anh Võ Phiến. Tôi không thể qua mặt anh.
Một buồi chiều, cuối mùa Đông, anh Tư đi làm về, trong
người rân rân mệt mỏi, nằm trông theo những con én bay ngược bay xuôi trong
xóm. Én bay rạo rực. Nó không bay vì nhu cầu chuyển dịch. Nó lướt qua rồi tức
thì lộn trở lại, bay vô ích. Nó bay như chỉ để phô trương, để biểu diễn những
pha bất ngờ. Én bay trong xóm đôi ba con hay năm bẩy con? Khó đếm được. Nó bay
loạn xị. Nó rạo rực niềm vui trên xóm nghèo, trong ráng chiều, khi người người
mệt mỏi. Anh Tư nằm trông theo én bay cho đến khi đèn đường bật sáng. (Một
Ngày Để Tùy Nghi - Võ Phiến)
Thành phố đã tỉnh dậy, dưới đất. Trên trời én như được
khuyến khích, như đắc thắng, càng ríu rít hơn. Bây giờ trên nền trời xanh bạc
đã trông thấy những cánh én lao tới lao lui, rộn cả lên. Chrirr... Chrirr... nó
cuống quít, nôn nao, rộn rực một niềm vui không chịu được, niềm vui rung lên
trong tiếng kêu.
Nhào lộn ngoài trời một lát, lại có một con én bay vụt
vào dưới mái ngói, đến sát bên cạnh tổ, nó chao qua chao lại, chập chờn cặp
cánh nhọn như vẫy chào cái tổ rồi bay vụt đi. Nó không vào tổ, nó không đậu,
không nghỉ, nhưng nó trở về, ghé chào, rồi ra đi. Không hiểu tại sao vậy. (Mùa
Xuân, Con Én - Võ Phiến).
Tôi cũng vậy. Anh Võ Phiến à. Như cánh én kia, lâu lâu tôi
trở về, ghé chào, rồi ra đi. Nhưng tôi hiểu vì sao.
Seattle, một đêm mưa cuối năm 2003
Nguyễn
Tường Thiết