Nói tới bóng đen, không thể không nhớ lại một câu chuyện cổ. Truyền thuyết
chất đủ sự nông nổi, vụng dại, đầy kịch tính:
Hai vợ chồng có con mọn. Chồng mang họ Trương, vì lính thú phải đi trấn nhậm
đồn xa. Vợ ở nhà đơn thân nuôi con dại, để dỗ dành con và làm nguôi nỗi nhớ
chồng, mỗi tối thắp đèn lên, chỉ tay vào bóng chiếu trên vách: “Cha con kìa”.
Lâu ngày, Trương được phép về thăm nhà, mừng vui gọi con lại nhưng đứa bé lắc
đầu: “Không, phải đợi trời tối kia, khi ấy thì cha mới về”. Trương đau lòng
nghĩ là vợ đã ngoại tình. Vợ chẳng tìm ra cách minh oan, lẳng lặng gạt lệ ra
tới bên sông, trầm mình tự tử. Chiều xuống, đêm về, Trương thắp đèn lên. Nhìn
bóng đen hắt vào vách nghe tiếng con reo vui: “Cha về rồi, đó mới đúng là cha”.
Trương chợt hiểu, giật mình, nhưng đã muộn. Hối lỗi tìm ra bờ sông lập đàn chay
mong giải oan cho vợ… Về sau vua Lê Thánh Tông hay chuyện đã hạ bút làm nên bài
thơ trách cứ, cho khắc vào bia đá trước miếu vợ chàng Trương. Hai câu cuối là:
“Qua đây mới rõ nguồn cơn ấy
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng”.
Lính thú đóng đồn phương xa, ngẫm lại, chàng Trương kia tốt phước hơn lính
tráng thời Việt Nam Cộng Hoà mang thân tù tội bị bắt vào rừng sâu “cải tạo”.
Khắp 4 vùng chiến thuật, trên từng cây số từ Bến Hải vào tới Cà Mau có mấy chục
ngàn chàng Trương? Thời cuộc phũ phàng nhưng chàng Trương buổi ấy “ngon lành”
hơn chàng Trương cổ tích. Trương nói cùng vợ: Xin em hãy cố quên anh đi. Em
xuống sắc quá trong khi em còn cả đoạn đường thanh xuân trước mặt. Hãy tha lỗi
cho anh, gắng nuôi đứa con mình thành người… Cực thân em quá, xin đừng oán
trách anh, có tàn hơi anh cũng gắng nguyện cầu cho em được an vui bên ngoài
cảnh giới này… Giới hạn cuối giờ thăm nuôi đã điểm, sương xuống lạnh, gió hiểm
ác từ Trường Sơn len lỏi về cứa rách da thịt. Trong lán, ngọn đèn dầu vừa thắp
lên: Miếu ai như miếu ngàn chàng Trương, ngọn đèn dầu tắt đừng nghe chúng, để
tôi thì thầm với bóng đen, sót lại chỉ mảnh tình riêng ta với ta.
Ngày xưa (hoà bình an vui?) sao bá tánh có được một ông vua nhân hậu và rỗi
việc đến thế nhỉ? Nhân hậu khi phê hai chữ phũ phàng, trong khi lỗi lầm chàng
Trương mắc phải cần phải roi vọt cần phải đánh đòn răn đe: Chính mi đã làm nước
nhà mất đi một người phụ nữ đức hạnh, thật thà. Rỗi việc là bề trên ham đi
ngoạn cảnh, nghe chuyện trái ngang liền lấy đó làm điều, tức cảnh sinh tình, đề
thơ vào bia đá rành rành, cho dù hậu sinh không ghé qua Thăng Long thành (để
hoài cổ), chẳng bước chân tới đèo Ngang bóng xế tà cũng nhìn nhận là thơ mọc
cùng khắp, thơ chen lá, lá chen hoa trăm loài đua nở. Hình như buổi ấy, oan ức
kiện tụng muốn trình lên bề trên, đơn trương thảo ra đủ đầy niêm luật tựa như
một bài thi phú? Ngày xưa lính thú Trương mù quáng trách vợ bạc tình phản bội.
Ngày nay (sau 75) lính tráng miền Nam lại tự đấm ngực mình: Lỗi tại ta mọi
đàng, vì ta mà em khổ tâm khổ trí tự hành xác trèo đèo vượt suối nhịn ăn để bới
xách cho ta nắm xôi, cục đường. Nếu không thể “tô son điểm phấn ngạo với nhân
gian một nụ cười” thì xin em hãy ôm con thơ dại mà tìm đường vượt biên. Con
cháu, hậu bối của Lê Thánh Tông có làm ra thơ trách cuộc bể dâu cũng chỉ lén
lút, hoặc nhẫm học thuộc lòng. Một trang kinh thấm đẫm mồ hôi nước mắt, có thể
là huyết lệ sống để bụng chết mang theo. Họ sinh hoạt dưới ba tầng địa ngục, và
họ, thực sự chỉ còn là cái bóng đen. Nói dông nói dài cũng chỉ cô lại: Chàng
Trương cổ lỗ sĩ thật đáng bị nhận đòn roi, gián tiếp giết vợ mình và trực tiếp
mang hạnh phúc mình có ra trấn nước. Suy ra, lên án chàng Trương xưa cũ chừng
nào thì càng trân trọng tán dương những chàng Trương hiện đại chừng đó. Trang
sử họ thầm lặng viết nên, hậu thế đáng khắc ghi, tưởng niệm, vì đâu nên nổi?
Nhớ về một thời kỳ ngùn ngụt cả khói nhang, mờ quyện trên cuộc đất hung hiểm,
vô thần, chẳng am miếu.
Không riêng ngọn đèn hiu hắt mà vợ chàng Trương thắp lên mỗi tối dùng để dỗ
dành, vỗ về niềm đơn lẻ, ở trong văn học vẫn thường sử dụng tới hình ảnh bóng
chiếu vào vách, bóng đọng dưới đường, bóng đi theo, lập lại trùng khít những
động tác của chủ thể. Bóng và người là một, lại tách hai, song hành. Buồn miệng
với cô quạnh, người mang tâm sự ra tỉ tê cùng bóng, nghĩ là bóng hiểu thấu,
nguôi ngoai (?). Ở đâu có ánh sáng, ở đó có sự phản quang, soi chiếu. Ánh sáng
làm xoá đi chút mông muội thường ẩn trốn vào bóng tối. Văn chương Trung Hoa ví
ánh sáng là người quân tử, quang minh chính đại, phơi mặt ra khi xử sự, không
hoá trang, đường đường chính chính. Ngược lại kẻ tiểu nhân vẫn thích hành động
trong bóng tối, bóng tối đồng loã với tội ác. Những sách lược hiểm độc thường
được bàn thảo, lên kế hoạch trong bóng đêm, tối như hủ nút. Và đối phương khi
tìm cách đối kháng chống trả, người ta họp bàn dưới ánh mặt trời. Quan Công dẫn
lính đi chinh phạt quân Tào Tháo vẫn luôn nhắm tới đại lộ, ngôn rằng chỉ hạng
tiểu nhân mới quen đi tiểu lộ. Lỡ không bắt được đứa gian ác, liền ngửa mặt lên
cao xanh mà quyết đoán: Lưới trời lồng lộng tuy thưa nhưng khó thoát. Câu ấy
chả có ai phán dưới bầu trời đen kịt cả. Thắp đuốc cũng khó mà lần ra “nó” đã
lẩn trốn phương nao. Thế mới đẻ thêm một phụ chú: Chạy trời sao khỏi nắng hở
thằng kia, con nọ!
Nhưng ở phương Tây, người ta nói khác đi: “Nếu không có bóng tối, bạn chẳng
tài nào trông rõ những vì sao”. Họ chẳng bận tâm phân loại môi trường, điều
kiện nào sản sinh ra hai hạng quân tử, tiểu nhân. Họ thích màn đêm, họ chuộng
bóng mờ, họ lập luận: Những suy nghĩ thấu đáo nhất là khi bạn ngồi thu lu trong
bóng đêm, ban ngày bạn thường biểu lộ sự bẳn gắt, nông nổi, bộp chộp. Những đứa
ngủ giấc trưa, cho dù có vắt tay lên trán cũng không thể đơm đặt những ước mơ
kỳ vỹ bằng đứa trằn trọc canh khuya. Bóng tối, với họ là căn nguyên của thơ
mộng, của lãng mạn đằm thắm. Hitler từng để cho đời câu bất hủ: Khi anh ở trong
hào quang, mọi thứ đều chạy theo anh; nhưng khi anh chìm vào bóng tối, đến ngay
cả cái bóng của anh cũng chẳng hề bám theo.
Ngày đó, nhà văn nữ Nguyễn Thị Thuỵ Vũ viết nên cuốn “Nhang Tàn Thắp Khuya”
(bốn chữ này vay mượn từ ca dao: Anh buồn còn chỗ thở than, em buồn như ngọn
nhang tàn thắp khuya), sang nhà văn nữ khác, Tuý Hồng có truyện dài mang tựa
“Tôi Nhìn Tôi Trên Vách”. Nhang tàn thắp khuya thế cho điều gì rất mực đơn côi,
héo hắt, câm lặng. Mà Tôi nhìn tôi trên vách cũng làm rõ nỗi cô đơn tuyệt cùng,
xao xác hơn cả Bà Huyện Thanh Quan khi viết “Một mảnh tình riêng ta với ta”. Ba
nữ nhân kia tuyệt không đụng tới chữ bóng, nhưng tựu trung có thể bảo đó là thứ
“ý tại ngôn ngoại”. Một thủ thuật của phép phân thân. Nhìn ngắm, tự khắc thấy
chữ dùng nọ hàm chứa ý tuy một mà hai, tôi nhìn lấy bóng của tôi hoặc nhang
đang cháy cụt kia là nỗi lòng của chính tôi vậy.
Nhà văn Mai Thảo cũng mang lời cảm thán vào câu thơ ông viết: “Nơi góc tường
in cái bóng gầy”. Và dằn vặt hơn cả là Tô Thuỳ Yên, thơ ông nhốt chật những
chiếc bóng tang thương: “Ta về một bóng trên đường lớn…” Khởi thuỷ đã dựng nên
thứ cảnh quang mông quạnh, cô độc đến thắt lòng.
Ở phương này, cuối năm trời chóng tối, mở đèn lên ngó ra tuyết đổ lạnh, cơ
hàn ngay cả chiếc bóng mỏng dính vừa in vào vách tường ở căn hộ cũ kỹ. Hắn vẫn
ngồi co ro một mình viết vẩn vơ và chiếc bóng thầm lặng kia đôi lần như biết
thì thầm sinh nhiễu sự: Viết cái gì đó? Viết để làm gì? Ừ nhỉ. Để làm gì? Làm
gì? Không là gì cả. Nếu trời Hè hẳn đã bước chân xuống đường “ôi ta buồn ta đi
loanh quanh chẳng vì đâu?”. Nhưng đang Đông, lịch hao mòn đi gần tới Giáng Sinh
se sắt âm độ, đành trói chân ngồi đối bóng và trả lời bóng: Viết để chống đối
với bó tay (chấm com). Viết để bắt đầu óc tập thể dục, ngầm biện hộ: Không phải
về già ai cũng đều bị lú lấp. Chỉ ngần ấy, kỳ dư chẳng đèo bồng thêm một tham
vọng nào khác. Bạn hiểu rồi mà, trong lúc này in ra được tập truyện, điều nọ
chẳng phải là thứ đơn giản. Nhiêu khê không bút mực nào tả xiết. Và vướng mắc
vào sự phi lý, tốn công hao sức rồi vô cớ tốn tiền hao bạc. Một đứa viết văn
phải nên thủ thân chút tự ái làm vốn liếng. Văn chương chứ không phải là một
món đồ để mang ra mặc cả, nói thách, xuống nước, van nài, bớt một thêm hai, quỵ
luỵ. Hắn vốn rất dở dang ở mặt “ngoại giao” kiểu đó. Hắn ghét thương lượng, kì
kèo chì chiết mặt chai mày sạn, hắn yêu hình ảnh một con bồ câu “vui thì đậu mà
buồn thì bay”. Thong dong là thứ đáng ngợi ca, vô ngại. Nhớ Trịnh Công Sơn: Tôi
như ngọn đèn từng đêm vơi cạn, lửa lên thắp một niềm riêng.
Hắn dự tính sẽ có một món quà mọn gửi tới các bạn văn đó đây nhân dịp năm
cùng tháng tận, nhưng phút cuối đành cực lòng để trấn nước mộng tưởng. Bất
thành, ướt nghe ngói, thấm lạnh lòng. Đành khôi hài: Bó tay chấm, hết. Hắn
chẳng thông hiểu rộng Hán nôm. Hữu xạ tự nhiên hương là gì? Bù trất. Khi bạn
cao tay nghề, thủ pháp thần sầu quỉ khóc, e rằng khi ấy sẽ có một nhà xuất bản
đứng ra kêu đích danh tên bạn: “Thít hông? Chơi tới bến lun. Đừng bùn nữa mờ.
Dị đi nhen”. Cái bóng đen nói: Nếu đó là sự thật thì há lẽ những đầu sách đang
lần lượt xuất hiện đều do những kẻ có võ công thâm hậu bày ra thứ kung-fu huê dạng
vung cước múa quyền? Đừng nói thế, chớ đơm đặt sự so sánh, sẽ vấp sai lạc quàng
xiên bởi bá nhân bá bao tử, trăm họ bất đồng không thể ngồi chung êm thắm một
nhà.
Không dưng nhớ sực tới câu thơ của Vũ Hoàng Chương :
“Riêng có mình ta phai áo lục
Còn em sau trước vẫn hồng nhan”.
Hắn đã từng phơi áo, phơi luôn mộng mị trên dây chùng, thảy bạc màu. Bạc như
sắc tuyết đang vây bủa, xuống đầy ngoài kia. Viết để làm gì thì đã dóng hỏi,
giờ cắc cớ để thắc mắc thêm: Vậy chớ in sách ra để làm gì? Ngồi không vọng động,
bóng đen cũng im sững. Ừ, cũng chẳng biết để mần chi! Mấy trăm trang giấy in
đầy mực đen ấy ví như hồng nhan. Mà hồng nhan thì đa truân, hồng nhan bạc mệnh,
hồng nhan thật vắn số. Phai áo lục mà thấm béo gì hòng mang nó ra đối chiếu với
sắc khuynh thành?
Những ngày cuối năm nói toàn những điều “không phải”. Hắn để ý: Có ai dầm
thân đi trong băng giá mà chu miệng để huýt gió? Hề, không một ai. Cắn răng mà
quờ quạng lê thân, rùn vai mà cắm cúi bước kẻo trợt ngã. Nhiệt độ mỗi khi một
xuống thấp, nhiệt đổi qua hàn. Lạnh ơi, ta xin chào mi. Tắt ngọn đèn, bóng đen
chẳng còn đậu ở đó nữa, biến mất. Đi thắp một cây nhang, cọng khói xám vụt lẩn
trốn nhanh, hơn một chớp mắt. Trống không.
Thấm thía lời Mai Thảo:
Sách một dẫy nằm trơ trên giá
Cạnh người thân thế cũng trơ trơ
Sách, người hai cõi cùng hư hoại
Nơi một ngàn chương thiếu một tờ.
Hồ Đình Nghiêm
2/12/2018