1.
Trước ngày 30-4, không ai có thể tranh cải về chuyện bà Tư cắt
giác là Phât tử nhiệt tình nhất, công quả nhiều nhất cho ngôi
chùa tại vùng Thắng Nhứt này. Sớm hôm bà Tư tận tụy tham gia mọi hoạt
động của nhà chùa, từ cúng kiếng, hành lễ, tiếp phẩm cho nhà trai,
đến việc chăm sóc hoa kiểng, sửa chữa điện, nước…
Đúng ra thì xa xưa hơn nữa, dân cái xóm phố bên này và xóm lưới
bên kia con đường quốc lộ đều mang ơn bà Tư cắt giác nhiều
lắm. Bà gốc người Bắc, tuổi đã ngũ tuần, khá đẫy đà, nước da ngâm
ngâm, bước đi nhanh nhẹn. Bà góa chồng, không con cái, làm nghề cạo
gió, giác hơi nhưng còn biết và giỏi nhiều nghề khác. Gặp khi tối
lửa tắt đèn, có nguời bị trúng gió, ngất xỉu hay rối rắm, lúng
túng hơn là đau đẻ thì đã có ngay bà Tư. Bà mụ vườn này cũng rất
mát tay khi chỉ vẽ, chữa trị những bịnh lặt vặt như hóc xương, trật
khớp, đau bụng… Bà cũng sẵn sàng cho mượn những món tiền nhỏ khi bà
con ngặt nghèo hay khuyên bảo, hòa giải những lục đục trong gia đình
người này, người khác.
Khi nói đến công quả của bà Tư cắt giác đối với nhà chùa
thì thật thiếu sót nếu không kê ra cái công lo liệu cho sinh hoạt ăn
uống, ngủ nghỉ, đi đứng… thường ngày và chăm sóc sức khỏe của quí
thầy.
Trước kia, chùa có hai thầy. Vai chính là thầy trụ trì thì vị sư
này thường vắng mặt ở chùa vì thầy chuyên lo “độ sinh” nghĩa là
hướng về con nguời còn sống, như đi làm công tác xã hội, cứu trợ,
ủy lạo bà con nghèo, sinh hoạt với gia đình hướng đạo Phật tử.v.v…
Sau ngày 30-4, thầy lặng lẽ bỏ đi sau khi nói với bá tánh là mình
là trở về quê ở miền Trung.
Tự động được đôn lên trụ trì không ai khác hơn thầy Tỷ, người bấy
lâu nay chuyên lo “độ tử” tức đi tụng đám ma, đám cúng thất,
đám giỗ, cầu siêu, cúng xả tang.v.v…Tụng kinh ăn nhịp với nhạc đám ma
là nghề của thầy tụng mà không phải thầy chùa nào cũng làm được.
Nhà sư của chúng ta lại làm rất tốt ngón nghề này trong toàn bộ
công việc “độ tử” của thầy. Có thầy Tỷ thì bài kinh, bài kệ của
nhà Phật sẽ diễn cảm không thua gì những bài vọng cổ, khấp
hoàng thiên, tứ đại oán… của cổ nhạc, tuồng cải lương. Hình như
tài năng này có được là do thầy học nơi anh Mai hớt tóc, một
thầy tụng chuyên nghiệp trong xóm, cũng là một chức sắc trong ban trị
sự nhà chùa.
Thân hình mảnh khảnh, lưng hơi còng, thầy Tỷ trông có vẻ già hơn cái
tuổi 32 của thầy. Một điều nữa là cặp kính cận thị gọng vàng thầy
thường đeo thì sáng chói, rất mắc tiền nhưng cũng không làm sáng sủa
gì hơn cho khuôn mặt thầy vốn xương xẩu và đen đúa.
Thầy Tỷ thường hay ho hen, ốm đau. Không biết có phải do cái sức
khỏe đáng tội nghíệp ấy hay không mà mọi người đã ngầm đồng ý bỏ
qua chuyện thầy giảng pháp khá mơ hồ, khó hiểu, hay chuyện thầy
thường nhỏ giọng hỏi đạo hữu: “Nè, bữa nay đánh con mấy?”.
Giải phóng rồi thì tự nhiên hoạt động của nhà chùa – không cần ai
ra cáo thị dán ở cổng – giảm hẳn đi, chắc để Phật tử còn chạy lo
cho những qui định cùng tiêu chuẩn của cuộc sống mới, như họp hành,
xếp hàng mua gạo và nhu yếu phẩm theo sổ, hay đi làm rẫy, trồng trọt,
tăng gia, cải thiện, và nhất là bán bớt đồ đạc trong nhà. Và như
một “mốt” thời thượng không thể thiếu, bên cạnh những luống hoa, chậu
kiểng làm đẹp trong khuôn viên chùa, đã xuất hiện những vạt đất nho
nhỏ, manh múng, trồng đủ thứ rau củ quả thực dụng như khoai mì, khoai
lang, xuyên tâm liên, lá kiến cò.v.v… Chùa thường xuyên vắng
người, vắng hẳn bọn học trò gái trường cấp 2 gần đó vốn thường
kéo nhau vô chùa ngồi rủ rỉ tâm sự hơn là học bài. Cũng vắng hẳn
bọn trẻ lẻn vô chùa hái bông sau khi đã vặt trụi mấy thứ trái cây
chưa kịp chín, không chừa thứ nào.
Chăm chỉ lui tới sớm hôm chỉ còn có bà Tư. Bà lo cơm nước cho
người tu trong chùa mà nay chỉ còn có mỗi thầy Tỷ. Bà châm dầu bàn
thờ Phật, quét trước trong ngoài, có khi cùng thầy vun xới mấy luống
khoai mì trong sân chùa. Và cũng như ngày trước, bà chăm sóc sức khỏe
thầy. Đăc biệt không hề khác ngày trước, để gọi là “giữ” cho thầy,
bà Tư luôn luôn tìm cách xua đuổi bất cứ đứa con gái hay chị đàn bà
trẻ nào đó dám léo hánh – dù lý do là công việc gấp hay chỉ do vô
tình – đến trước cửa buồng riêng của thầy Tỷ ở phía sau chùa.
2.
Chuyện đã xảy ra. Có người vô tình thấy, đúng hơn là thoáng thấy,
họ ôm ấp nhau trong buồng của thầy Tỷ.
Những ai đó biết chuyện đã cố gắng giữ kín bưng cái chuyện động
trời nhưng không phải là khó tin này. Tiếc là, chẳng bao lâu chuyện
tưởng như kín đáo cũng bung ra thành những tiếng xì xầm bàn tán ở
nhiều nơi trong xóm làng. Người thì nói, đâu hiếm chuyện một số nhà
tu như linh mục và nhà sư, trong những hoàn cảnh khác nhau, đã sa ngã
vào sắc dục. Ngược lại, có người nói bề ngoài chỉ thấy bà Tư cắt
giác đứng trước mặt thầy thì vẫn một mực cung kính, chắp tay,
cúi đầu, giữ đúng một khoảng cách nghiêm túc giữa tín nữ và tu sĩ,
vậy mà ai dè…
Thật ra, đã có sự thay đổi chết người từ bên trong. Hằng ngày bà
Tư đến chùa, đến cửa Phật mà cứ như đến một chỗ hẹn quen thuộc,
dành cho việc tiếp xúc riêng tư giữa hai con nguời. Nhưng nguyên nhân
chính yếu đưa đến sa ngã chắc không phải chỉ có sự gần gũi, tiếp
cận thân xác – như những lúc thầy cởi trần, ngồi hoặc nằm, cho bà Tư
cạo gió – là mầm mống cám dỗ kiểu lửa gần rơm thường xảy
ra nơi những cặp trai gái xuân thì, đầy đủ sinh lực mà thèm muốn
nhau. Người đàn ông và người đàn bà trong chuyện này đã khá lớn
tuổi, còn chênh lệch đến mười mấy tuổi và không bên nào còn có sức
hấp dẫn, sức gợi dục về ngoại hình.
Trớ trêu thay thầy Tỷ lại là người đàn ông duy nhất trong tâm tư,
cảm xúc của bà Tư. Dù thời thế có đổi thay đến đâu đi nữa thì thầy
trụ trì vẫn gần như tượng trưng cho đấng thiêng liêng mà bà Tư – người
đàn bà không có gia đình, chồng con gì mà phải lo lắng, bận tâm – đã
kính thờ, mến mộ. Hiện giờ, tại chùa rất ít khi có sự hiện diện
của người khác nên bà Tư gần gũi hơn với hình tượng mình tôn thờ
trong một khung cảnh thường xuyên vắng lặng, hiu quạnh, thiếu ánh
sáng. Trong lòng bà Tư, có mặt tại chùa là bà đang thể hiện vô giới
hạn những thiện chí, thiện tâm phục vụ cho đức tin, tín ngưỡng, cho
nơi hành đạo, hành lễ là nhà chùa, đồng thời cho người hướng dẫn
tâm linh của bà.
Hiến thân – cái từ đầy nhạy cảm, đầy sức quyến rũ mê
muội, liều lĩnh trong tình yêu trai gái – dù mơ hồ nhưng đã tượng
hình trong lòng người đàn bà lớn tuổi này một cách vô thức, lặng
lẽ. Không thi vị, ngọt ngào nhưng chơn chất, trung thực. Còn về thầy
Tỷ, người đàn ông trung niên nương nhờ cửa Phật, cái sắc giới
mà thầy đã mới phạm vào kia nói nào ngay cũng không là nhan sắc lộng
lẫy, da thịt mượt mà gì. Người đàn bà ấy vốn là chỗ dựa quen
thuộc, đáng tin cậy gần như là duy nhất cho thầy vì thầy không có gia
đình cùng bà con nào sống quanh đây.
Mặt khác, đối với chính quyền mới, giới tu sĩ vốn là thành phần
không lao động hay không quen lao động trong xã hội, hơi đâu mà quan tâm,
hỗ trợ này khác? May mắn thay cho thầy Tỷ – cái nhân khẩu mặc áo nâu
bị rẻ rúng này, đã có bà Tư cắt giác. Bà Tư vừa là nguồn
cung cấp về vật chất, cơm áo, sức khỏe, vừa là nguồn hỗ trợ, giúp
đỡ về tinh thần trong đời sống hằng ngày – nghĩa là từ câu nói hỏi
han, cái nhìn thông cảm cho đến bàn tay xoa nắn, vuốt ve trên da thịt
thầy.
Thầy Tỷ đã thường xuyên nhận được quá nhiều thứ từ bà Tư, để
rồi vào một thời điểm bất ngờ, mối quan hệ trao-nhận được lập đi
lập lại không biết bao lần ấy giữa hai con nguời đã sống cô đơn, cô
độc lâu ngày, đã lãng đãng kéo sát hai thân thể họ lại với nhau như
những cực âm/dương của hai thỏi nam châm sống, bùng vỡ thành trao nhận
nhục dục giữa hai con-người-thân-xác.
Nếu kinh nghiệm xác thịt sống động này là hoàn toàn mới lạ đối
với thầy Tỷ, một gã trai tân, thì cũng gần như thế đối với bà Tư,
người đàn bà đã ở góa nhiều năm. Có gì đó có vẻ nghịch lý nhưng
thật chua chát khi trong lúc họ gần gũi nhau, đôi tay mạnh mẽ, chở che
lại không phải được đưa ra từ phía người đàn ông. Còn người đàn ông
trong cuộc thì chỉ biết tiếp nhận vòng tay của nguời đàn bà bảo
trợ cho mình bấy lâu nay mà giờ đây, vòng tay ấm áp của một ân nhân
đã biến thành vòng tay nồng nàn của tình nhân. Trong những phút giây
mê đắm một cách không thể nào ngờ trước ấy, không do bên nào chủ
động khêu gợi, dẫn dắt cho bạn tình, vì họ cứ chìm sâu trong cảm
xúc, mơ hồ thương cảm cho nhau cũng như xót thương cho chính mình.
3.
Đổi đời rồi, cũng như biết bao người khác, thầy Tỷ và bà Tư biết
suy tính gì cho số phận mình, cho tương lại mình?
Nói cho sâu xa về phần tinh thần, tâm linh, về những lý tưởng chính
trị cùng bảng giá trị xã hội – nhân sinh đang được chế độ tuyên
truyền, cổ vũ và quyết tâm xây dựng, áp dụng trên toàn đất nước thì
tuy những điều này ít nhiều cũng có tính nhân bản, hướng đến số
phận của đại đồng loài người, nhưng những điều này dù sao cũng còn
quá xa lạ với đầu óc của một tu sĩ và một bà làm nghề cắt
giác. Dù những con-người-cũ này có dư dả thiện chí, mong mỏi
được hội nhập vào cuộc-sống-mới thì cũng chưa chắc mọi cánh cửa
đều rộng mở cho họ.
Còn nhìn cho đơn giản, dễ hiểu theo tâm lý người đời, không cần tư
duy gì cho cao siêu thì những mô hình lý tưởng trước kia như hình ảnh
vinh quang của một cao tăng quyền cao chức trọng trong giáo hội, làm
chủ một ngôi chùa nguy nga, tráng lệ, làm chủ một quĩ công đức dồi
dào, hay hình ảnh trang trọng của một nữ Phật tử sùng tín, giàu
công đức, đầy nhân ái, được mọi người kính trọng, thương mến…, tất
cả nay còn đâu nữa?
Đã nghiêng đổ thê thảm cái bệ thờ uy nghiêm mà qua nhiều năm tháng,
thầy Tỷ cùng bà Tư đã đặt lên đó lý tưởng sống của mình, cúc cung
hướng theo đó để một mặt, tập trung mọi cố gắng tu tập, trao dồi
đức hạnh hay làm việc thiện, tìm ra niềm vui trong khổ hạnh, còn mặt
khác là nương theo đó mà có thể tự kềm giữ mình trước cám dỗ và
lạc thú. Nay họ đã chao đảo, mất phương hướng trong đức tin, mất an
ổn trong tình cảm, nên dần hồi buông xuôi ý chí, lười nhác tu dưỡng,
lại không còn có bậc trưởng thượng nào bên cạnh nhắc nhở.
Tâm lý sống-được-ngày-nào-hay-ngày-nấy, loại tâm trạng vô cùng
phổ biến đối với người dân miền Nam sau ngày 30-4, đã ngầm dẫn dắt
hành vi của hai người trong cuộc mà họ không hề ý thức được, không
còn sức gượng chống cho đủ vững vàng theo lời kêu gọi của đạo đức,
luân lý…
Bấy lâu nay, trong cuộc sống tu hành hay làm công quả vừa đạm bạc,
xa lạ với cao lương mỹ vị và vui chơi giải trí, hầu như thầy Tỷ cùng
bà Tư đều không có ý niệm, không có yêu cầu gì đối với việc hưởng
thụ lạc thú trên đời. Nhưng vừa rồi, lạc thú nóng, ẩm, rất trần
tục lại rất thực. Những cảm giác, cảm xúc không hư ảo, giả tạm
chút nào! Thầy Tỷ vốn rất ít bỏ công phu động não trong việc giải
thích, đánh giá mọi sự ở đời nên trình độ hiểu thiền, hành thiền ”
sắc sắc không không” cỡ như thầy thì không thể nào hư vô hóa nỗi cái
thống khoái con người. Đây hẳn là một pháp nạn riêng tư, rủi ro đơn lẻ
xảy đến cho cá nhân một nhà tu.
Bối cảnh nhà chùa đang lúc xuống cấp, nhiều đồ vật tự nhiên cùng
hẹn nhau rằng đến thời kỳ mạt pháp này – chỉ đơn
thuần hiểu theo nghĩa đen, nghĩa vật chất là nhà chùa đã nghèo hẳn
đi vì không còn đạo hữu đến tài trợ hay làm công đức – là đồng loạt
hư hỏng. Như đèn cháy bóng, cửa sổ nghiêng xệ, mái tôn dột nát, gạch
bông tróc bể…, thật vừa vặn và thích hợp cho vở bi kịch chỉ có hai
vai diễn mà vừa rồi cũng suy sụp, trượt ngã.
Sau chuyện đã xảy ra, mỗi người trong cuộc cứ muốn quên hẳn đi, cố
gắng tự nhũ rằng đó chỉ là một giấc mơ, một cơn mê sảng hay gì gì
cũng được, miễn là mình trốn thoát hay thoắt nhiên tan biến đâu mất
giữa cõi đời, thay vì phải trân mình chịu đựng, cả sợ hãi nữa,
trước những cái nhìn câm nín nhưng nặng nề, lạnh lẽo như tra vấn,
phán xét của người khác. Hay dù đã cố tránh né nhưng hai người trong
cuộc vẫn có lúc vô tình chạm vào cái nhìn của nhau, họ đành ngại
ngùng mà cùng một nhịp nhìn chỗ khác, nói vội vài câu hỏi han,
thông báo nhạt nhẽo, vô nghĩa bằng cách xưng hô cố hữu.
Những hạnh phúc về tinh thần và đức tin mà họ đã có, trong cuộc
sống, trong ngôi chùa, trong xóm làng bao năm tháng qua, dường như đã
bị xóa nát chỉ bởi một chút hạnh phúc vật chất, dục lạc thân xác
mà chỉ trong khoảnh khắc hư ảo, họ đã trao nhận cho nhau.
Một nhà văn Nam Mỹ, trong một truyện lấy bối cảnh là một xứ đạo
ở vùng quê khô hạn, nghèo khó, đã kể chuyện vị linh mục già nua
hằng đêm ôm ấp bà giúp việc nhà thờ, một phụ nữ cũng lớn tuổi lại
rất xấu xí. Tác giả công khai bày tỏ niềm thông cảm cho tội lỗi của
hai nguời, với lý lẽ hoàn cảnh: linh mục thì nghèo đến mức
áo ấm đã rách nát từ lâu, đêm thì lạnh căm căm, nên chỉ còn cách
sưởi ấm bằng thân thể của nguời đàn bà cũng nghèo, rách mạt hạng
kia. Nhưng nhà văn lại ngao ngán kể tiếp là dư luận giáo dân trong xứ
đạo vẫn lên án, kết tội…
4.
Dư luận, nhất là những lời bàn tán về chuyện tội lỗi, thường chỉ
là những lời thì thầm to nhỏ, như thể người ta cố hạn chế âm lượng,
không cho đến tai trẻ con và nguời trong cuộc, nhưng sức lan truyền của
dư luận đến mức nào thì chỉ có trời biết! Nhưng không sao, nhân gian
đã có từ ì xèo. Cái từ ngộ nghĩnh, nghe rất không chuẩn khi
đem ra phân tích ngữ nghĩa, lại rất dễ hiểu, giàu tính tượng hình
và tượng thanh, khi dùng để mô tả sức lan tỏa sâu rộng, nhanh chóng
của một mẫu chuyện truyền miệng, một tin đồn.
Nhưng mặt khác, dư luận là đứa trẻ con ham chơi và mau quên, chuyên
vồ vập những món đồ chơi mới, ít ngó ngàng tới món đồ cũ. Hiện
giờ, chuyện ì xèo trong cái xóm phố gần biển này không còn
là chuyện thầy Tỷ và bà Tư cắt giác nữa mà là chuyện vượt
biên.
Mỗi sáng ngủ dậy rồi gặp nhau ở đầu đường, cuối hẻm, dân đường
trên xóm dưới cứ thì thầm về chuyện đêm qua đã có ghe nhà ai đó đi
hồi nào, ghe nhà ai đó đánh ở bãi nào… Thì ra,
từ lúc nào không ai rõ, cái nhịp sống có vẻ lặng lẽ, khép kín của
cái xóm lưới nghèo nàn này đã ngấm ngầm chuyển động, khởi từ
những gia đình chưa bỏ nghề biển cùng những chíếc ghe tưởng đã bị
bỏ phế của họ.
Đêm qua, thầy Tỷ đã có mặt trong một chuyến đi trót lọt. Dư luận
lại cựa mình, chia một phần ì xèo cho chuyện thầy Tỷ, có
kèm thêm, đúng ra là nhắc lại chút đỉnh về chuyện cũ. Chẳng bao lâu,
mức độ chợt tăng lên vì mọi người đã lần hồi biết được chính bà Tư
cắt giác là nguời đã bỏ ra mấy cây vàng cho chủ ghe, vốn có
thiếu nợ bà, để lo cho thầy Tỷ đi. Người ta vội vàng quay lại với
bà cắt giác, mới hay bà cũng đã âm thầm ra đi, không rõ đi
đâu…
Chưa lúc nào lại có nhiều chuyện xảy ra liên tiếp như lúc này.
Vắng mặt nhân khẩu duy nhất trong sổ hộ khẩu nhà chùa, lại vắng mặt
vì lý do bất hợp pháp là vượt biên, người của ủy ban phường lập
tức xuống lập biên bản tiếp quản, kiểm kê chùa. Phía bị kiểm kê chỉ
có mặt một người tạm gọi là đại diện nhà chùa: anh Mai hớt tóc.
Ban trị sự chùa được bầu ra từ trước ngày 30-4 đã tự động giải
tán hồi nào không ai rõ, và bằng cách này cách khác, họ cũng lần
lượt rời khỏi xóm phố này, còn lại chỉ có anh Mai. Sau ngày chùa
bị tiếp quản, anh Mai đành bỏ bê cái chòi hớt tóc của mình, chạy đi
truy tìm, thu thập lại những giấy tờ liên quan đến nhà chùa, đất của
chùa và miệt mài làm đơn, gởi đơn…
Chậm mất rồi, chính thức có giấy tờ tiếp quản lúc nào thì không
ai rõ nhưng phường đã nhanh chóng lập ra hai kho hàng trong chùa, một
của cửa hàng than cũi – chất đốt, một của hợp tác xã tiêu thụ
phường.
Anh Mai hớt tóc, người dân cố cựu sống tại vùng đất này,
cũng là người duy nhất còn giữ một bộ chìa khóa cũ của các cánh
cửa cho lối đi trong/ngoài của ngôi chùa, đã hoàn toàn tuyệt vọng.
Có lúc anh tâm sự với người khác rằng mình không muốn sống nữa vì
tâm nguyện cả đời của anh là giữ gìn, bảo vệ ngôi chùa của xóm
làng đã thất bại hoàn toàn. Nhưng sau này, khi bàn đoán về lý do anh
tự tử chết trong một đêm mưa tại cái chòi rách nát của mình, có
người lại đưa ra thêm chuyện gia đình anh lục đục, cắn đắng, hình như
vì chuyện anh có vợ nhỏ. Lại một chuyện kín đáo nữa đã bị ì
xèo!
Phạm Nga
(Sydney, tháng 11/2018)