Có đôi lần tôi thử cố nhớ lại mình đã thật sự lớn khi nào. Tôi muốn biết
liệu có một thời điểm mong manh mà ở đó, phía bên này là sự ngây thơ, còn bên
kia là tâm trí của một kẻ vừa mới nhận chân được gương mặt cuộc sống. Khi ấy, giống
như anh chàng đứng ngắm bóng mình trong hồ nuôi cá cảnh và tưởng tượng những
con cá đang bơi sau lớp kính là tuổi thơ của mình, còn đám rong rêu cùng hòn
non bộ kia là khung trời mộng mơ mà anh ta đã đắm chìm vào và lầm tưởng đó là
thế giới đích thực.
Nhưng có vẻ gì đó như một sự đốn ngộ, một ánh chớp loé lên và chẳng để lại
gì. Một ánh chớp loé lên và cái thế giới cũ vụt tan biến. Không biết có bao
người may mắn nhớ rõ được thời điểm toả sáng ấy trong cuộc đời. Phải chăng,
trong phần lớn những cuộc đời khác, nó thường trôi qua lặng lẽ và không để lại
một dấu ấn nào – đó là một cuộc chuyển hoá chậm, dày và chẳng thể nhớ gì về nó.
Nhưng tôi lại mơ hồ cảm nhận rằng nếu có đủ thời gian và sự tĩnh tâm để rà xét,
có khi ta sẽ lần ra khoảnh khắc ý nghĩa ấy. Nó giống như chuyện thuở nhỏ khi
tôi lần mò trong đêm tối để tìm viên bi bị rơi, tôi biết chắc nó đang nằm ở một
xó xỉnh nào đó, chỉ cần tay tôi vươn tới tôi sẽ bắt được…
Đó là một thời đói triền miên, đói từ làng trên đến xóm dưới. Mọi thứ đều
trông tiêu điều, người sống lặng lẽ như những chiếc bóng lẩn khuất sau luỹ tre
hay lang thang trên cánh đồng. Những năm ấy, tôi đâu khoảng hơn mười tuổi, cao
lêu nghêu, da đen nhẻm và tóc xơ xác như rễ tre. Tôi hay lang thang một mình,
lúc trên rừng, khi ngoài đống nhưng thường nhất là lặn dưới sông. Tôi không
biết người lớn họ chịu đựng cái đói ra sao còn đối với tôi lúc ấy chẳng khi nào
tôi để cho cái dạ dày của mình phải khốn khổ vì trống rỗng. Khi đói bụng tôi ăn
đủ thứ, từ bắt ốc bươu luộc ăn, đến hái trộm dưa hay đào trộm khoai lang, rồi
đi bắn chim trên rừng đem nướng lá chanh…A, mà bạn biết chim nướng lá chanh
không, món thượng hạng, tôi sẽ kể rõ ngay sau đây: vặt sạch lông, mổ bỏ hết bộ
lòng, rửa sạch, nhét lá chanh vào, quấn mười lớp lá chuối tươi rồi nướng cho
đến khi cháy đến lớp lá cuối cùng là được. Sau đó chấm muối tiêu và nhai ngấu
nghiến từ đầu đến thân, rồi 2 cẳng và sau cùng là linh hồn của nó…
Tôi khởi sự nhớ lại từ mùa đông năm ấy. Đó là một mùa đông khắc nghiệt, cái
đói cùng với cái lạnh đã vùi dập hầu hết những ước mơ và dự định tốt đẹp tôi
đang có trong đầu. Bởi mùa đông là khi tôi chẳng thể lang thang trên rừng hay
xuống sông để tự kiếm miếng ăn. Tôi mặc bộ đồ may bằng bao cát ấp chiến lược và
nằm co ro trong một góc nào đó để nghe tiếng mưa rả rích trên mái tôn. Mưa dầm
dề từ ngày này qua ngày khác, có khi cả tuần chưa thấy mặt trời. Tôi nằm im
lặng chịu đựng và lắng nghe cái đói cồn cào trong dạ dày. Tôi nhận thức rõ thời
gian đang trôi đi từ buổi sáng qua buổi trưa rồi bò chậm chạp đến buổi tối,
nhưng tôi biết chắng có gì đang được nấu dưới bếp. Cũng có khi tôi rời chỗ nằm
và mò xuống bếp để nhìn. Tôi nghĩ trên đời sẽ chẳng có gì thê thảm hơn một cái
bếp nguội lạnh trong mùa đông mưa dầm.
Sau này tôi mới hiểu tại sao thường mùa đông lại là mùa đói quay quắt như
thế. Bởi đó là khoảng trống mùa vụ, chẳng có cây gì đang được trồng vào mùa đó
ngoài ruộng. Cánh đồng lúc ấy chỉ trơ gốc rạ nằm thối rục trong mưa, một vài
con chất thọc cắm mỏ vào những ổ trùn vừa mới đùn lên trên những mô đất cao.
Mùa đông còn là mùa tôi nhớ nhiều chuyện nhất. Có lẽ là do tâm trí được yên
tịnh, chỉ có nằm, lắng nghe và chịu đựng. Hằng đêm tôi khó ngủ nằm trằn trọc và
lắng nghe mọi thứ âm thanh. Ngoài tiếng mưa, tôi còn hay để ý đến tiếng chuột.
Bọn chúng chạy và kêu rất náo nhiệt trên xà nhà làm như có điều gì vui lắm.
Nhưng mẹ tôi lại nói khác, bà nói bọn chuột cũng đói và đang chạy đi tìm thức
ăn, “càng đói chạy càng gấp”. Thỉnh thoảng mẹ tôi cũng đùa nói bọn chúng đang
hát tập thể:
“Chút cha chút chít,
Ỉa không chùi đít,
Không sợ dính quần…”
Tôi được một trận cười no nê và ngủ lúc nào không hay…
Rồi mùa đông nào cũng kết thúc khi tết đến. Tết là những ngày được tôi chờ
đợi nhất dù thường tôi chẳng có gì, từ quần áo mới hay tiền lì xì. Tết như một
chút dấu ấn nhắc nhở những con người cùng quẫn rằng thời gian vẫn đang trôi và
họ vẫn đang sống. Hồi ấy tôi tưởng tượng nếu không có tết chắc tôi chẳng biết
chờ đợi gì trên đời này nữa.
Nhưng tết không chỉ là dấu ấn của thời gian, nó còn được mong đợi hơn vì đó
là những ngày sẽ được ăn no và ăn ngon. Chuỗi ngày ăn giỗ no nê được bắt đầu từ
rằm tháng chạp, kế đến là đưa ông Táo về trời, rôi cứ tiếp diễn đến đầu xuân
với rất nhiều lễ cúng. Nhưng khi lễ đưa ông bà được cúng vào ngày mùng ba, đó
là lúc lòng tôi chớm buồn, nỗi buồn cố hữu quay lại, u ám và dai dẳng.
Rồi thời gian trôi thật nhanh khi ký ức vụt kéo tôi đến những ngày cuối xuân
năm ấy khi mùa lúa đông xuân vừa gặt xong. Đó là những hình ảnh câm lặng đau
buồn chẳng khi nào phai trong tâm trí tôi nhưng phải rât lâu sau này, khi đã
thật sự trưởng thành, tôi mới hiểu rõ ngọn nghành. Và khi đó, bóng dáng của
những ngày cùng khốn ấy lại hiện ra, tròn vành vạnh không sót một chi tiết nào…
Mọi thứ đều dồn vào buổi sáng hôm ấy, trong một khoảnh khắc thật ngắn ngủi,
khi nắng vàng chiếu rạng rỡ trên những ngọn tre.
Trước khi có khoảnh khắc chấn động ấy tôi không nghĩ mình đã biết rõ về ông
– ông xã Chiên, một ông già lụ khụ. Tôi không nhớ năm đó ông bao nhiêu tuổi,
nhưng tôi nhớ rõ ông đã rất già, theo cái nghĩa phải đếm từng mùa đông đến.
Mùa đông, với những cơn gió bấc lạnh buốt là nỗi ám ảnh của người già.
Thường là họ sẽ chết vào một mùa đông nào đó. Cái đói và lạnh sẽ lần lượt kéo
những người già cả ốm yếu về âm ty. Khi chim cú báo hiệu, sẽ có người già nào
đó phải chết. Vào những đêm đông, khi tiếng chim cú mổ từng âm buồn thảm, ba
tôi thường lắng nghe rất chăm chú. Sáng hôm sau ông lọc ra một danh sách những
người khả dĩ nhất trong xóm có tiếng chim cú đêm qua rồi ngẫm nghĩ. Tôi thấy
lần nào ba tôi cũng đoán trúng và đó là điều kỳ lạ mà cho đến bây giờ tôi vẫn
không thể nào hiểu được.
Ông xã Chiên chỉ sống một mình trong căn nhà tranh nhỏ, nằm ở góc một khu
vườn có tre phủ kín mít tứ phía. Vườn nhà ông nằm kế những khu vườn hoang nối
liền nhau. Đó là vương quốc của chim chóc và rắn rít. Những buổi chiều, khi mặt
trời ngã bóng, những khu vườn hoang chợt trở nên u tối đến rợn người. Rồi chim
vịt, bìm bịp,…thi nhau rền vang những âm điệu buồn đến nao lòng. Tôi cũng
thường lai vãng vào đó để bắn chim. Khu vườn râm mát suốt ngày vì rất hiếm khi
nắng chiếu lọt được vào trong, trừ những buổi trưa đứng bóng. Trong cái không
gian tĩnh mịch ấy, tôi hay đi thơ thẩn từ đầu này tới đầu kia khu vườn, và cuối
cùng dừng bước trước ngôi nhà tranh cũ nát. Trong nhà chỉ có cái chõng tre, một
cái ảng nước, 3 cục gạch kê làm bếp và mấy cái nồi móp méo đen sì…
Căn nhà của ông lúc nào cũng đong đưa như răng người già nhưng không hiểu
sao nó vẫn chưa sập dù năm nào cũng có bão thổi qua vài bận. Cái bí quyết đứng
vững của căn nhà ấy phải sau này tôi mới biết rõ…
Hồi ấy tôi đã từng thắc mắc không biết ông ấy ăn gì để sống vì suốt căn nhà
không thấy có một thứ gì có thể cho vào miệng được. Tôi có đem điều thắc mắc ấy
hỏi vài người lớn nhưng chẳng ai giải thích họ chỉ cười ruồi. Chắc họ nghĩ tôi
chỉ là một đứa con nít, mà con nít thì không cần phải biết những chuyện đại
loại như vậy. Nhưng người lớn họ hay nhầm lẫn giữa sự hiểu biết và lòng trắc
ẩn. Họ không nghĩ rằng có chút lòng xót thương đang nảy nở trong tầm hồn tôi
khi nhìn cảnh cô đơn bần cùng của một ông già ốm yếu. Có lẽ, hồi ấy, cái đói,
cái cùng quẫn của nợ nần đã cầm tù tâm trí họ. Còn lòng tốt ư, nó phải vượt qua
được cái dạ dày sôi réo, phải thắng được cái tâm trí bấn loạn, trước khi lọt ra
ngoài qua vài câu xuýt xoa tội nghiệp.
Trở lại buổi sáng cuối xuân năm ấy. Đó là một buổi sáng hứa hẹn một ngày
nắng nóng gay gắt. Bởi từ sáng, mặt trời đã lên chói chang. Nhưng đó không phải
là thời điểm tâm trí của những người lớn còn có thể nghĩ về thời tiết, họ đang
lo lắng tụ tập về sân đội với nỗi ám ảnh hằn lên trên từng gương mặt khốn quẫn.
Sáng hôm ấy đội truy thu nợ của công an huyện về làm việc với những hộ còn
nợ lúa hợp tác xã.
Ba tôi từ sáng sớm đã lên sân đội. Khoảng 3 hay 4 người mặc đồng phục màu
vàng đang ngồi ở dãy bàn phía trên. Tôi chẳng biết họ nói gì, nhưng bên dưới
tất cả đều im thin thít.
Phải sau này tôi mới biết câu chuyện sáng hôm ấy. Đó là họ bắt những người
thiếu nợ phải bằng mọi cách trả thuế cho hợp tác xã. Họ hăm doạ rât nhiều khiến
ai cũng lo sợ thất thần. Sau này ba tôi kể họ đập bàn, quát vào mặt ông, họ đe
sẽ bắt nhốt nếu không trả nợ.
Hồi đó hình như nhà ai cũng nợ lúa nhà nước. Ba tôi giải thích, một mảnh
ruộng được nhà nước quy định năng suất và người dân khi sử dụng phải đóng thuế
70% trên cái năng suất lý thuyết ấy. Vì năng suất được quy định quá cao, gần
như chẳng khi nào đạt đến trong thực tế nên mùa nào cũng chẳng đủ lúa để đóng
thuế. Đâm ra ai cũng nợ nhà nước đầm đìa.
Chuyện nợ nần ấy luôn làm tôi liên tưởng đến những chuyện khác, khủng khiếp
hơn, xảy ra thường xuyên nhưng chẳng ai đặt câu hỏi vì sao. Có lẽ do nó xảy ra
thường quá nên nhàm chăng, còn bọn con nít coi chúng chỉ như những trò hấp dẫn.
Đó là các vụ tự tử bằng thuốc rầy. Tôi còn nhớ, cứ dăm bữa nữa tháng lại nghe
một vụ uống thuốc rầy tự tử. Thường những chuyện như vậy tôi sẽ chẳng khi nào
bỏ qua. Khi nghe tiếng la khóc từ phía trạm xá vọng lại, tôi sẽ ba chân bốn
cẳng phóng đi. Khi ra tới nơi tôi cố chen lấn để luồn vào trong. Trên nền xi
măng, kẻ tự tử nằm quặt quẹo ở đó, từ người họ mùi thuốc trừ sâu bay ra nồng
nặc làm ngộp thở cả căn phòng. Một người dùng ống đút vào miệng rồi đổ nước
vào, còn một người khác sẽ leo lên bụng đạp. Họ đạp cho đến khi nước trào ra
lại đằng miệng. Họ làm như vậy nhiều lần cho đến khi nước súc không còn mùi
thuốc nữa mới thôi…
Có điều, tất cả những thứ kinh khiếp ấy chưa bao giờ khiến tôi sợ hãi. Hồi
ấy tôi chỉ coi nó như những chuyện bình thường khác vẫn xảy ra hằng ngày xung
quanh, đơn giản như cãi lộn hay chửi bới của mấy bà bán cá. Có lẽ đó là lý do
tại sao người ta gọi là trẻ thơ. Cũng như thời gian, nhận thức là quá trình một
chiều và không thể đảo ngược, một khi bạn đã “biết” rồi thì chẳng có cách nào
để bạn trở lại “không biết”. Nghĩa là, khi bạn nhận ra sự khổ đau thì đó cũng
là lúc bạn đã bước vào một thế giới khác – thế giới người lớn. Và nó cũng khởi
đầu cho sự trượt dài không lối thoát trong cõi nhân sinh, cho đến khi bạn hoàn
toàn biến mất.
Và đã có một sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn tôi kể từ buổi sáng hôm ấy…
Đó là khi không khí của buổi họp được dồn đến căng thẳng tột độ, bất thình
lình ông xã Chiên xuất hiện. Tôi nhớ mới hôm qua ông còn bịnh nằm liệt giường,
sao hôm nay ông lại đến đây. Ông đi lừ đừ từ ngoài cổng vào. Lúc ấy nắng đã lên
cao, chiếu bóng ông in hình đậm nét trên nền gạch. Chiếc bóng đen thẫm, nhấp nhô
như trong phim hoạt hình, hết nghiêng bên này lại ngã bên kia và tiến về phía
dãy bàn phía trên, nơi những vị mặc sắc phục màu vàng đang ngồi.
Tôi nhớ là cả sân người ngồi dưới và mấy vị quan chức đều im lặng dõi theo
từng bước ông đi. Ông ngật ngưỡng đến đứng trước mặt họ. Hình như ông nói gì
đó, và có vị đã cười. Tôi nghĩ họ đã nói chuyện không đến nỗi căng thẳng cho
lắm. Nhưng bất ngờ, ông xã Chiên mở nắp cái chai mang theo và đưa lên miệng.
Rồi tôi thấy ông ngã lăn ra sân. Chiếc bóng mất hút. Những tiếng la hét, gào
thét bắt đầu vang lên cuồng loạn. Những người đang ngồi dưới bật đứng dậy và
lao lên trước. Cho đến khi mùi thuốc rầy nồng nặc bắt đầu lan đến chỗ tôi đứng,
tôi mới bừng tỉnh và hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Sau đó hình như người ta có đưa ông đi cấp cứu, nhưng chỉ được một quãng thì
ông đã chết. Họ nói ông đã uống hết cả nửa chai thuốc rầy nên chẳng Trời Phật
nào cứu nỗi…
Sau này ba tôi kể, trước hôm ấy vài ngày, ông xã Chiên được tuyên dương
trước đội như một mẫu mực vì đã bán cây cột sơn để trả nợ. Đó là cây cột gỗ sơn
lớn và đen bóng, nó là chỗ dựa duy nhất cho căn nhà tranh của ông.
Sau đó vài tháng, một cơn bão nhẹ thổi qua làm căn nhà đổ tan nát và vườn
nhà ông trở thành vườn hoang. Chiều chiều, tiếng bìm bịp vọng ra từ đó nghe như
tiếng gọi hồn buồn thảm. Thỉnh thoảng tôi có đi ngang qua, nhưng chẳng khi nào
còn dám bước chân vào nơi ấy nữa.
Trà Đóa