– Nội xuống kìa!
– Nội xuống! Ê! Nội xuống!
– Nội xuống!
Bầy con tôi reo mừng, chạy ùa ra ngõ. Ngoài đó, tiếng xích lô máy cũng vừa
tắt.
Trong buồng, vợ tôi gom vội mấy giấy tờ hồ sơ nhét vào xắc tay, nhìn tôi, im
lặng.Tôi hiểu: bà già xuống như vậy, làm sao giấu được chuyện tôi và hai đứa
lớn sẽ vượt biên? Sáng sớm mai là đi rồi …
Tôi choàng tay ôm vai vợ tôi, siết nhẹ:
Khi vợ chồng tôi bước ra hiên nhà thì bầy nhỏ cũng vừa vào tới sân. Đứa xách
giỏ, đứa xách bao, đứa ôm gói, hí hửng vui mừng. Bởi vì mỗi lần bà nội chúng nó
từ Gò Dầu xuống thăm đều có mang theo rất nhiều đồ ăn, bánh trái thịt thà…
Những ngày sau đó, mâm cơm dưa muối thường ngày được thay thế bằng những món ăn
do tay bà nội tụi nó nấu nướng nêm-nếm. Nhờ vậy, mấy bữa cơm có cái phong vị
của ngày xưa thuở mà miền Nam chưa mất vào tay Việt Cộng… Mấy con tôi thường
gọi đùa bà Nội bằng « trưởng ban hậu cần » hoặc chị « nuôi » và lâu lâu hay
trông có bà nội xuống. Và lúc nào câu chào mừng của chúng nó cũng đều giống như
nhau: « Nội mạnh hả Nội? Nội có đem gì xuống ăn không Nội? ». Mới đầu, tôi nghe
chướng tai, nhưng sống trong sự thiếu thốn triền miên của chế độ xã hội chủ
nghĩa, lần hồi chính bản thân tôi cũng chỉ nghĩ đến miếng ăn thôi!
Con gái út tôi, mười một tuổi, một tay xách giỏ trầu của bà nội, một tay
cặp-kè với bà nó đi vào như hai người bạn. Bà nó cưng nó nhứt nhà. Lúc nào
xuống, cũng ngủ chung với nó để nghe nó kể chuyện. Nó thích bà nội ở điều đó và
thường nói: « Ở nhà này chỉ có nội là thích nghe em kể chuyện thôi! ».Thật ra,
nó có lối kể chuyện không đầu không đuôi làm mấy anh mấy chị nó bực. Trái lại,
bà nó cho đó là một thi vị của tuổi thơ, nên hay biểu nó kể chuyện cho bà nghe,
để lâu lâu bà cười chảy nước mắt.
Tôi hỏi má tôi:
– Sao bữa nay xuống trưa vậy nội?
Vợ chồng tôi hay gọi má tôi bằng « nội » như các con. Nói theo tụi nó, riết
rồi quen miệng. Lâu lâu, chúng tôi cũng có gọi bằng « má » nhưng sao vẫn không
nghe đầm-ấm nồng-nàn bằng tiếng « nội » của các con. Hồi cha tôi còn sống, tụi
nhỏ còn gọi rõ ra « ông nội » hay « bà nội ». Cha tôi mất đi, ít lâu sau, chúng
nó chỉ còn dùng có tiếng « nội » ngắn gọn để gọi bà của chúng nó, ngắn gọn
nhưng âm thanh lại đầy trìu mến.
Má tôi bước vào nhà, vừa cởi áo bà ba vừa trả lời:
– Thôi đi mầy ơi!… Mấy thằng công an ở Trảng Bàng mắc dịch! Tao lên xe hồi
sáng chớ bộ. Tới trạm Trảng Bàng tụi nó xét thấy tao có đem một lon ghi-gô mỡ
nước, vậy là bắt tao ở lại. Nói phải quấy bao nhiêu cũng không nghe. Cứ đề
quyết là tao đi buôn lậu!
Rồi má tôi liệng cái áo lên thành ghế bàn ăn, nói mà tôi có cảm tưởng như bà
đang phân trần ở Trảng Bàng:
– Đi buôn lậu cái gì mà chỉ có một lon mở nước? Ai đó nghĩ coi! Nội tiền xe
đi xuống đi lên cũng hơn tiền lon mỡ rồi. Đi buôn kiểu gì mà ngu dại vậy hổng
biết!
– Ủa? Rồi làm sao nội đi được? Bộ tụi nó giữ lại lon mỡ hả nội? Con gái lớn
tôi chen vào.
– Dễ hôn! Nội đâu có để cho tụi nó « ăn » lon mỡ, con! Mỡ heo nội thắng đem
xuống cho tụi con chớ bộ.
Ngừng lại, hớp một hớp nước mát mà con út vừa đem ra, xong bà kể tiếp, trong
lúc các con tôi quây quần lại nghe:
– Cái rồi … cứ dan ca riết làm nội phát ghét, nội đổ lì, ngồi lại đó đợi tụi
nó muốn giải đi đâu thì giải.
Nghe đến đây, bầy con tôi cười thích thú. Bởi vì tụi nó từng nghe ông nội
tụi nó kể những chuyện « gan cùng mình » của bà nội hồi xưa khi cùng chồng vào
khu kháng chiến, nhứt là giai đoạn trở về hoạt động ngầm ở thành phố sau này,
trước hiệp định Genève…
Con út nóng nảy giục:
– Rồi sao nữa nội?
– Cái rồi… lối mười một mười hai giờ gì đó nội hổng biết nữa. Ờ… cở đứng
bóng à. Có thằng cán bộ đạp xe đi ngang. Nó đi qua khỏi rồi chớ, nhưng chắc nó
nhìn thấy nội nên hoành xe lại chào hỏi: « Ũa? Bà Tám đi đâu mà ngồi đó vậy? »
Nội nhìn ra là thằng Kiểu con thầy giáo Chén ở Tha-La, tụi bây không biết đâu.
Kế nội kể hết đầu đuôi câu chuyện cho nó nghe. Nó cười ngất. Rồi nhờ nó can
thiệp nên nội mới đi được đó. Lên xe thì đã trưa trờ rồi… Ti! Kiếm cây quạt cho
nội, con!
Ti là tên con út. Cây quạt là miếng mo cau mà má tôi cắt, vanh thành hình rồi
đem ép giữa hai tấm thớt dầy cho nó bớt cong .Má tôi đem từ Gò Dầu xuống bốn
năm cây quạt mo phân phát cho mấy cháu, nói: « Nội thấy ba má tụi con gỡ bán
hết quạt máy, nội mới làm thứ này đem xuống cho tụi con xài. Kệ nó, xấu xấu vậy
chớ nó lâu rách ».
Con út cầm quạt ra đứng cạnh nội quạt nhè nhẹ mà mặt mày tươi rói: tối nay
nó có « bạn » ngủ chung để kể chuyện! Vợ tôi đem áo bà ba của má tôi vào buồng
mấy đứa con gái, từ trong đó hỏi vọng ra:
– Nội ăn gì chưa nội?
– Khỏi lo! Tao ăn rồi. Để tao têm miếng trầu rồi tao với mấy đứa nhỏ soạn đồ
ra coi có hư bể gì không cái đã.
Rồi mấy bà cháu kéo nhau ra nhà sau. Tôi nhìn theo má tôi mà bỗng nghe lòng
dào dạt. Từ bao nhiêu năm nay, trên người má tôi chẳng có gì thay đổi. Vẫn loại
quần vải đen lưng rút, vẫn áo túi trắng ngắn tay có hai cái túi thật đặc biệt
do má tôi tự cắt may: miệng túi cao lên tới ngực chớ không nằm dưới eo hông như
những áo túi thường thấy. Mấy đứa nhỏ hay đùa: « Cha… bộ sợ chúng nó móc túi
hay sao mà nội làm túi sâu vậy nội? » Má tôi cười: « Ậy! Vậy chớ túi này chứa
nhiều thứ quí lắm à bây ». Những thứ gì không biết, chớ thấy má tôi còn cẩn
thận ghim miệng túi lại bằng cây kim tây!
Tôi là con một của má tôi. Vậy mà sau khi cha tôi chết đem về chôn ở Gò Dầu,
quê tôi, má tôi ở luôn trên đó. Nói là để chăm sóc mồ mả và vườn tược cây trái.
Thật ra, tại vì má tôi không thích ở Sài Gòn, mặc dù rất thương mấy đứa cháu.
Hồi còn ở chung với vợ chồng tôi để tránh pháo kích – dạo đó, Việt cộng hay bắn
hỏa tiễn vào Gò Dầu về đêm – má tôi thường chắc lưỡi nói: « Thiệt… không biết
cái xứ gì mà ăn rồi cứ đi ra đi vô, hổng làm gì ráo ». Cái « xứ » Sàigòn, đối
với má tôi, nó « tù chân tù tay » lắm, trong lúc ở Gò Dầu má tôi có nhà cửa đất
đai rộng rãi, cây trái xum xuê, và dù đã cao niên, má tôi vẫn thường xuyên xách
cuốc xách dao ra làm vườn, làm cỏ. Vả lại chung quanh đất má tôi, là nhà đất
của các anh bà con bên ngoại của tôi, thành ra má tôi qua lại cũng gần. Các anh
chị bà con tới lui thăm viếng giúp đỡ cũng dễ. Cho nên, dù ở một mình trên đó,
má tôi vẫn không thấy cô đơn hiu quạnh. Lâu lâu nhớ bầy con tôi thì xuống chơi
với chúng nó năm bảy bữa rồi về. Má tôi hay nói đùa là « đi đổi gió »!
Mấy năm sau ngày mất nước, cuộc sống của gia đình tôi càng ngày càng bẩn
chật. Cũng như thiên hạ, vợ chồng tôi bán đồ đạc trong nhà lần lần để ăn. Má
tôi biết như vậy nên xuống thăm mấy đứa nhỏ thường hơn, để mang « cái gì để ăn
» cho chúng nó. Nhiều khi nằm đêm tôi ứa nước mắt mà nghĩ rằng lẽ ra tôi phải
nuôi má tôi chớ, dù gì tôi cũng mới ngoài bốn mươi lăm còn má tôi thì tuổi đã
về chiều. Vậy mà bây giờ, mặc dù là công nhân viên nhà nước xã hội chủ nghĩa
với lương kỹ sư « bật hai trên sáu », tôi đã không nuôi nổi má tôi, mà trái lại
chính má tôi phải cắt-ca cắt-củm mang đồ ăn xuống tiếp tế cho gia đình tôi,
giống như má tôi mớm cơm đút cháo cho tôi thuở tôi còn thơ ấu! Thật là một «
cuộc đổi đời » ( Việt Cộng thường rêu rao: « Cách mạng là một cuộc đổi đời » ).
Nhưng cuộc đổi đời của mẹ con tôi thì thật là vừa chua cay vừa hài hước!
Lắm khi tôi tự hỏi: « Rồi sẽ đi đến đâu? ». Bấy giờ tôi đã trở thành «
trưởng ban văn nghệ » của cơ quan, một lối đi « ngang » mà nhờ đó tôi còn được
ở lại với sở cũ. Bởi vì mấy chục năm kinh nghiệm trong nghề nghiệp chánh của
tôi, nhà nước cách mạng cho là vô dụng, không « đạt yêu cầu ». Thành ra, tối
ngày tôi chỉ lo cho đoàn « nghiệp dư » của cơ quan tập dượt hát múa. Thật là
hề. Còn về phần các con tôi, tương lai gần nhứt là đi đánh giặc Kampuchia,
tương lai xa hơn thì thật là mù mịt!
Trong lúc tôi không có lối thoát thì một người bạn đề nghị giúp chúng tôi
vượt biên, nhưng chỉ đi được có ba người. Vậy là chúng tôi lấy quyết định cho
hai đứa lớn đi theo tôi. Chuyện này, chúng tôi giấu má tôi và mấy đứa nhỏ, kể
cả hai đứa đã được chọn. Phần vì sợ đổ bể, phần vì sợ má tôi lo. Ai chẳng biết vượt
biên là một sự liều lĩnh vô cùng. Rủi đi không thoát là bị tù đày chẳng biết ở
đâu, may mà đi thoát cũng chưa chắt là sẽ đến bờ đến bến. Người ta nói trong số
những người đi thoát, hai phần ba bị mất tích luôn. Thành ra, « vượt biên » là
đi vào miền vô định…
Theo chương trình thì sáng sớm ngày rằm cha con tôi đi xe đò xuống Cần Thơ
rồi từ đó có người rước qua sông ông Đốc để xuất hành ngay trong đêm đó. Tôi
thắc mắc hỏi: « Tổ chức gì mà đi chui nhằm ngày rằm cha nội? ». Bạn tôi cười: «
Ai cũng nghĩ như anh hết. Tụi Việt Cộng cũng vậy. Cho nên hể có trăng sáng là
tụi nó nằm nhà nhậu, không đi tuần đi rỏn gì hết. Hiểu chưa? »
Bữa nay là mười bốn ta nhằm ngày thứ bảy, vợ chồng tôi định không nói gì
hết, chờ sáng sớm mai gọi hai đứa lớn dậy đi với tôi xuống Cần Thơ. Như vậy là
chúng nó sẽ hiểu. Và như vậy là kín đáo nhứt, an toàn nhứt. Rồi sau đó vợ tôi
sẽ liệu cách nhắn tin về cho má tôi hay. Chừng đó thì « sự đã rồi »…
Bây giờ thì má tôi đã có mặt ở đây, giấu cũng không được. Đành phải nói cho
má tôi biết. Nhưng nói lúc nào đây? Và nói làm sao đây? Liệu má tôi có biết cho
rằng tôi không còn con đường nào khác? Liệu má tôi có chấp nhận cho tôi không
giữ tròn đạo hiếu chỉ vì lo tương lai cho các con? Liệu má tôi… liệu má tôi…
Tôi phân vân tự đặt nhiều câu hỏi để chẳng thấy ở đâu câu trả lời…
Tôi ngồi xuống thềm nhà, nhìn ra sân. Ở đó, bờ cỏ lá gừng xanh mướt ngày xưa
đã bị chúng tôi đào lên đấp thành luống để trồng chút đỉnh khoai mì, một ít
khoai lang, vài hàng bắp. Không có bao nhiêu nhưng vẫn phải có. Cho nó giống
với người ta, bởi vì nhà nào cũng phải « tăng gia » cho đúng « đường lối của
nhà nước » . Thật ra, trồng trọt bao nhiêu đó, nếu có… trúng mùa đi nữa, thì
cũng không đủ cho bầy con tôi « nhét kẻ răng »! Vậy mà tên công an phường,
trong một dịp ghé thăm, đã tấm tắc khen: « Anh chị công tác tốt đấy chứ. Tăng
gia khá nhất khu phố đấy! Các cháu tha hồ mà ăn ». Anh ta không biết rằng mấy
nhà hàng xóm của tôi, muốn « tăng gia », họ đã phải đào cả sân xi-măng hoặc sân
lót gạch, thì lấy gì để « làm tốt »?
Khi tôi trở vào nhà thì con út đang gãi lưng cho nội. Nó vén áo túi nội lên
đến vai, để lộ cái lưng gầy nhom, cong cong và hai cái vú teo nhách. Tôi tự
hỏi: « Lạ quá! Chỉ có mình mình bú hồi đó mà sao làm teo vú nội đến như vậy
được? ». Rồi tôi bồi hồi cảm động khi nghĩ rằng chính hai cái núm đen đó đã
nuôi tôi lớn lên với dòng sữa ấm, vậy mà chẳng bao giờ nghe má tôi kể lể công
lao. Tôi cảm thấy thương má tôi vô cùng. Tôi len lén từ phía sau lòn tay măn vú
má tôi một cái. Má tôi giựt mình, rút cổ lại:
– Đừng! Nhột! Thằng chơi dại mậy!
Rồi má tôi cười văng cốt trầu. Con Ti la lên:
– Má ơi! Coi ba măn vú nội nè!
Tôi cười hả hê thích thú. Trong khoảnh khắc thật ngắn ngủi đó, tôi bắt gặp
lại những rung động nhẹ nhàng sung sướng khi tôi măn vú mẹ thuở tôi mới lên ba
lên năm…Và cũng trong khoảnh khắc đó, tôi đã quên mất rằng má tôi đã gần tám
mươi mà tôi thì trên đầu đã hai thứ tóc! Và cũng quên mất rằng từ ngày mai trở
đi, có thể tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại má tôi nữa, để măn vú khi bất chợt
thấy má tôi nhờ cháu nội gãi lưng như hôm nay…
Chiều hôm đó, khi ngồi vào bàn ăn, mắt bầy con tôi sáng rỡ. Bữa cơm thật
tươm tất, đầy đủ món ăn như khi xưa. Có gà nấu canh chua lá giang, một loại
giây leo có vị chua thật ngọt ngào mà hình như chỉ ở miệt quê tôi mới có. Món
này, bà nội mấy đứa nhỏ nấu thật đậm đà. Bà thường nói: « Canh chua phải nêm
cho cứng cứng nó mới ngon ». Mà thật vậy. Tô canh nóng hổi, bốc lên mùi thơm
đặc biệt của thịt gà lẫn với mùi chua ngọt của lá giang, mùi mặn đằm thấm của
nước mắm và mùi tiêu mùi hành… Húp vào một miếng canh chua, phải nghe đầu lưỡi
ngây ngây cứng cứng và chân tóc trên đầu tăng tăng, như vậy mới đúng. Nằm cạnh
tô canh chua là tộ cá kèo kho tiêu mà khi mang đặt lên bàn ăn nó hãy còn sôi
kêu lụp-bụp, bốc mùi thơm phức vừa mặn vừa nồng cay lại vừa béo, bỡi vì trong
cá kho có tóp mỡ và trước khi bắt xuống, bà nội có cho vào một muỗng mỡ nước
gọi là « để cho nó dằn »! Đặc biệt, khi làm cá kèo, bà không mổ bụng cá, thành
ra khi cắn vào đó, mật cá bể ra đăng đắng nhẹ nhàng làm tăng vị bùi của miếng
cá lên gấp bội. Ngoài hai món chánh ra, còn một dĩa măng luộc, tuy là một món
phụ nhưng cũng không kém phần hấp dẫn nhờ ở chỗ sau khi luộc rồi măng được
chiên lại với tỏi nên ngã màu vàng sậm thật là đậm đà…
Sau khi và vài miếng, vợ tôi nhìn tôi rồi rớt nước mắt. Nội hỏi:
– Bộ cay hả?
Vợ tôi “dạ”, tiếng “dạ” nằm đâu trong cổ. Rồi buông đũa, mếu máo chạy ra nhà
sau. Tôi hiểu. Bữa cơm này là bữa cơm cuối cùng, bữa cơm mà cả gia đình còn xum
họp bên nhau. Rồi sẽ không còn bữa cơm nào như vầy nữa. Gia đình sẽ chia hai.
Những người đi, rồi sẽ sống hay chết? Còn những người ở lại, ai biết sẽ còn tan
tác đến đâu? Tôi làm thinh, cắm đầu ăn lia lịa như mình đang đói lắm. Thật ra,
tôi đang cần nuốt thật nhanh thật nhiều, mỗi một miếng nuốt phải thật đầy cổ họng…
để đè xuống, nén xuống một cái gì đang trạo trực từ dưới dâng lên. Mắt tôi nhìn
đồ ăn, nhìn chén cơm, nhìn đôi đũa, để khỏi phải nhìn má tôi hay nhìn bầy con,
ngần đó khuôn mặt thân yêu mà có thể tôi sẽ vĩnh viễn không còn thấy lại nữa.
Trong đầu tôi chợt hiện ra hình ảnh người đang hấp hối, trong giây phút cuối
cùng lưỡi đã cứng đơ mắt đã dại, vậy mà họ vẫn nhìn nuối những người thương để
rồi chảy nước mắt trước khi tắt thở. Rồi tôi thấy tôi cũng giống như người đang
hấp hối, không phải chết ở thể xác mà là chết ở tâm hồn, cũng một lần vĩnh
biệt, và cũng sẽ bước vào một cõi u-minh nào đó, một cõi thật mơ hồ mà mình
không hình dung được, không chủ động được!
Má tôi gắp cho tôi một cái bụng cá to bằng ngón tay cái:
– Nè! Ngon lắm! Ăn đi! Để rồi mai mốt hổng chắc gì có mà ăn!
Ý má tôi muốn nói rằng ở với Việt Cộng riết rồi đến loại cá kèo cũng sẽ khan
hiếm như các loại cá khác. Nhưng trong trường hợp của tôi, lời má tôi nói lại
có ý nghĩa của lời tống biệt. Nó giống như: ”Má cho con ăn lần này lần cuối. Ăn
đi con! Ăn cho ngon đi con!”. Tôi ngậm miếng cá mà nước mắt trào ra, không kềm
lại được. Nếu không có mặt bầy con tôi, có lẽ tôi đã cầm lấy bàn tay của má tôi
mà khóc, khóc thật tự do, khóc thật lớn, để vơi bớt nỗi thống khổ đã dằn vật
tôi từ bao nhiêu lâu nay… Đằng này, tôi không làm như vậy được. Cho nên tôi
trạo trực nuốt miếng cá mà cảm thấy như nó thật đầy xương xóc!
Má tôi nhìn tôi ngạc nhiên:
– Ủa? Mày cũng bị cay nữa sao?
Rồi bà chồm tới nhìn vào tộ cá. Các con tôi nhao nhao lên:
– Đâu có cay, nội.
– Con ăn đâu thấy cay. Hai có nghe cay hôn Hai?
– Chắc ba má bị gì chớ cay đâu mà cay.
– Con ăn được mà nội. Có cay đâu?
Các con tôi đâu có biết rằng cái cay của tôi không nằm trên đầu lưỡi, mà nó
nằm trong đáy lòng. Cái cay đó cũng bắt trào nước mắt!
Tôi đặt chuyện, nói tránh đi:
– Hổm rày nóng trong mình, lưỡi của ba bị lở, nên ăn cái gì mặn nó rát.
Rồi tôi nhai thật chậm để có thời gian cho sự xúc động lắng xuống. Miếng cơm
trong miệng nghe như là sạn sỏi, nuốt không trôi…
Sau bữa cơm, bà cháu kéo hết vào buồng tụi con gái để chuyện trò. Thỉnh
thoảng nghe cười vang trong đó. Chen trong tiếng cười trong trẻo của các con,
có tiếng cười khọt khọt của nội, tiếng cười mà miếng trầu đang nhai kềm lại
trong cổ họng, vì sợ văng cốt trầu. Những thanh âm đó toát ra một sự vô tư,
nhưng lại nghe đầy hạnh phúc. Lúc này, có nên nói chuyện vượt biên với má tôi
hay không? Tội nghiệp bầy con, tội nghiệp nội… Ngoài phòng khách, tôi đi tới đi
lui suy nghĩ đắn đo. Vợ tôi còn lục đục sau bếp, và cho dù vợ tôi có mặt ở đây cũng
không giúp gì tôi được với tâm sự rối bời như mớ bòng bong. Tôi bèn vào buồng
ngủ, trải chiếu dưới gạch-từ lâu rồi, vợ chồng tôi không còn giường tủ gì hết-
rồi tắt đèn nằm trong bóng tối, gác tay lên trán mà thở dài…
Thời gian đi qua… Trăng đã lên nên tôi thấy cửa sổ được vẽ những lằn ngang
song song trắng đục. Trong phòng bóng tối cũng lợt đi. Không còn nghe tiếng
cười nói ở phòng bên và tôi nghĩ chắc đêm nay vợ tôi ngủ với hai đứa lớn ngoài
phòng khách, để trằn trọc suốt đêm chờ sáng.
ỗng cửa phòng tôi nhẹ mở, vừa đủ để tôi nhìn thấy bóng má tôi lom khom hướng
vào trong hỏi nhỏ:
– Ba con Ti ngủ chưa vậy?
Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng trả lời nho nhỏ vừa đủ nghe:
– Dạ chưa, má.
Má tôi bước vào đóng cửa lại, rồi mò mẫm ngồi xuống cạnh tôi, tay cầm quạt
mo quạt nhè nhẹ lên mình tôi, nói:
– Coi bộ nực hả mậy?
– Dạ. Nhưng rồi riết cũng quen, má à.
Tôi nói như vậy mà trong đầu nhớ lại hình ảnh tôi và thằng con trai hè hụi
tháo gỡ mấy cây quạt trần để mang đi bán. Im lặng một lúc. Tay má tôi vẫn quạt
đều. Rồi má tôi hỏi:
– Tụi bây còn gì để bán nữa hông?
– Dạ…
Tôi không biết trả lời làm sao nữa. Chiếc xe hơi bây giờ chỉ còn lại cái
sườn, không ai chịu chở đi. Trong nhà bây giờ chỉ còn bộ bàn ăn, cái tủ thờ nhỏ
và bộ xa-long mây “sứt căm gãy gọng”. Ngoài ra, trên tường có chân dung “Bác
Hồ” dệt bằng lụa và nhiều “bằng khen”,”bằng lao động tiên tiến”… những thứ mà
nhà nào cũng có hết, cho, chưa chắc gì có ai thèm lấy! Bỗng tôi nhớ có một hôm
tôi nói với bầy con tôi: ”Ba tự hào đã giữ tròn liêm sỉ từ mấy chục năm nay.
Bây giờ, đổi lấy cái gì ăn cũng không được, đem ra chợ trời bán cũng chẳng có
ai mua. Sao ba thấy thương các con và tội cho ba quá!”. Lúc đó, tôi tưởng tượng
thấy tôi đứng ở chợ trời, dưới chân có tấm bảng đề “Bán cái liêm sỉ, loại chánh
cống. Bảo đảm đã hai mươi năm chưa sứt mẻ”. Thật là khùng nhưng cũng thật là
chua chát!
Nghe tôi “dạ” rồi nín luôn, má tôi hiểu, nên nói:
– Rồi mầy phải tính làm sao chớ chẳng lẽ cứ như vầy hoài à? Tao thấy bầy tụi
bây càng ngày càng trõm lơ, còn mầy thì cứ làm thinh tao rầu hết sức.
Má tôi ngừng một chút, có lẽ để lấy một quyết định:
– Tao xuống kỳ này, cốt ý là để nói hết cho mầy nghe. Tao già rồi, mai mốt
cũng theo ông theo bà. Mày đừng lo cho tao. Lo cho bầy con mầy kìa. Chớ đừng vì
tao mà bắt mấy đứa nhỏ phải hy sinh tương lai của tụi nó. Mầy liệu mà đi, đi!
Kiếm đường mà kéo bầy con mầy đi, đi! Ở đây riết rồi chết cả chùm. Không chết
trận trên Miên thì cũng chết khùng chết đói. Thà tụi bây đi để tao còn thấy
chút đỉnh gì hy vọng mà sống thêm vài năm nữa. Mày hiểu hôn?
Nghe má tôi nói, tôi rớt nước mắt. Chuyện mà bao lâu nay tôi không dám nói
với má tôi thì bây giờ chính má tôi lại mở ngỏ khai nguồn. Và tôi thật xúc động
với hình ảnh bà mẹ già phải đẩy đứa con duy nhứt đi vượt biên để vui mà sống
với ít nhiều hy vọng! Thật là ngược đời: có người mẹ nào lại muốn xa con? Chỉ
có ở chế độ xã hội chủ nghĩa mới xảy ra những chuyện “đổi đời” như vậy!
Tôi nắm bàn tay không cầm quạt của má tôi, lắc nhẹ:
– Má à! Lâu nay con giấu má. Bây giờ má nói, con mới nói. Sáng sớm mai này,
con và hai đứa lớn sẽ xuống Cần Thơ để vượt biên.
Tôi nghe tiếng cây quạt mo rơi xuống gạch. Rồi yên lặng. Một lúc lâu sau, má
tôi mới nói:
– Vậy hà…
Tôi nghe có cái gì nghẹn ngang trong cổ. Tôi nuốt xuống mấy lần, rồi cố gắng
nói:
– Con đi không biết sống hay chết. Con gởi má vợ con và ba đứa nhỏ, có bề gì
xin má thương tụi nó …
Nói tới đó, tôi nghẹn ngào rồi òa lên khóc ngất. Tôi nghe có tiếng quạt phe
phẩy lại, nhanh nhanh, và bàn tay má tôi vuốt tóc tôi liên tục giống như hồi
nhỏ má tôi dỗ về tôi để tôi nín khóc.
Một lúc sau, má tôi nói:
– Thôi ngủ đi, để mai còn dậy sớm.
Rồi bước ra đóng nhẹ cửa lại. Sau đó, có tiếng chẹt diêm quẹt rồi một ánh
sáng vàng vọt rung rinh lòn vào khuôn cửa, tôi biết má tôi vừa thắp đèn cầy
trên bàn thờ. Tiếp theo là mùi khói nhang, chắc bà nội mấy đứa nhỏ đang cầu
nguyện ngoài đó.
Tôi thở dài, quay mặt vào vách, nhắm mắt mà nghe chơi vơi, giống như đang
nằm trong một cơn mộng…
Năm giờ sáng hôm sau, má tôi kêu tôi dậy đi. Hai con tôi đã sẵn sàng, mỗi
đứa một túi nhỏ quần áo. Chúng nó không có vẻ gì ngạc nhiên hay xúc động hết.
Có lẽ mẹ tụi nó đã gọi dậy từ ba bốn giờ sáng để giảng giải và chuẩn bị tinh
thần. Riêng tôi, thật là trầm tĩnh. Nước mắt đêm qua đã giúp tôi lấy lại quân
bình. Thật là mầu nhiệm!
Tôi vào buồng hôn nhẹ mấy đứa nhỏ đang ngủ say, xong ôm vợ tôi, ôm má tôi.
Hai người thật là can đảm, không mảy may bịn rịn.
Tôi chỉ nói có mấy tiếng:
– Con đi nghe má!
Rồi bước ra khỏi cổng.
oOo
Lần đó, tôi đi thoát.
Rồi phải ba bốn năm sau, tôi mới chạy chọt được cho vợ con tôi rời Việt Nam
sang sum họp với tôi ở Pháp. Má tôi ở lại một mình.
Mấy ngày đầu gặp lại nhau, vợ con tôi kể chuyện “bên nhà” cho tôi nghe, hết
chuyện này bắt qua chuyện nọ. Bà Nội được nhắc tới nhiều nhứt và những chuyện
về bà nội được kể đi kể lại thường nhứt.
Tụi nó kể:
“Ba đi rồi, mấy bữa sau cơ quan chỗ ba làm việc cho người đến kiếm. Tụi con
trốn trong buồng, để một mình nội ra. Nội nói rằng nội nhờ ba về Tây Ninh rước
ông Tư xuống bởi vì trên đó đang bị Cao Miên pháo kích tơi bời, tới nay sao không
thấy tin tức gì hết, không biết ba còn sống hay chết nữa. Nói rồi, nội khóc
thật mùi-mẫn làm mấy cán bộ trong cơ quan tin thiệt, họ an ủi nội mấy câu rồi
từ đó không thấy trở lại nữa”.
Rồi tụi nó kết câu chuyện với giọng đầy thán phục: “Nội hay thiệt!”.
Nghe kể chuyện, tôi bồi hồi xúc động. Tôi biết lúc đó má tôi khóc thiệt chớ
không phải giả khóc như các con tôi nghĩ. Bởi vì, trong hai trường hợp dù sự
việc xảy ra có khác nhau, nhưng hoàn cảnh sau đó vẫn giống nhau y hệt. “Ba con
Ti đi không biết sống hay chết” vẫn là câu hỏi lớn đè nặng tâm tư của má tôi.
Bề ngoài má tôi làm ra vẻ bình tĩnh để an lòng con dâu và cháu nội, nhưng là
một cái vỏ mỏng manh mà trong khi kể chuyện cho các cán bộ, nó đã có dịp bể
tung ra cho ưu tư dâng đầy nước mắt…
“Rồi sau đó -tụi con tôi kể tiếp- nội ở lại nhà mình để chờ tin tức và cũng
để ra tiếp chuyện hàng xóm và chánh quyền địa phương, chớ má thì ngày nào cũng
đi chùa, còn tụi con nội sợ nói hé ra là mang họa cả đám. Lâu lâu, nội về Gò
Dầu bán đồ rồi mua thịt thà đem xuống tiếp tế cho tụi con. Thấy nội già mà lên
lên xuống xuống xe cộ cực nhọc quá, tụi con có can ngăn nhưng nội nói nội còn
mạnh lắm, nội còn sống tới ngày con Ti lấy chồng nội mới chịu theo ông theo
bà!”.
Tôi biết: má tôi là cây cau già – quá già, quá cỗi – nhưng vẫn cố bám lấy
đất chỉ vì trên thân cây còn mấy dây trầu… Hình ảnh đó bỗng làm tôi ứa nước
mắt. Thương má tôi và nhớ cả quê hương. Cái quê hương tuyệt đẹp của tôi mà Việt
Cộng đã cướp mất. Cái quê hương mà trên đó tôi không còn quyền sống như ý mình
muốn, phát biểu những gì mình nghĩ, ca tụng những gì mình thích. Ở đó, ở quê
hương tôi, tôi còn bà mẹ già, bà mẹ tám mươi đã cắt ruột đuổi con đi, bỏ quê
hương mà đi, để bà còn chút gì hy vọng sống thêm vài ba năm nữa! Bây giờ, vợ
con tôi cũng đã đi hết. Má tôi còn lại một mình. Thân cây cau giờ đã nhẵn dây
trầu, thêm tuổi đời một nắng hai mưa. Tôi biết! Má ơi! Con biết: cây cau già
bây giờ đang nhớ thắt thẻo mấy dây trầu non …
Theo lời các con tôi kể lại, hôm tiếp được điện tín của bạn tôi ở Pháp đánh về
báo tin tôi và hai đứa lớn đã tới Mã Lai bình yên, cả nhà tưng bừng như hội.
Tụi nó nói: “Nội vội vàng vào mặc áo rồi quì trước bàn thờ Phật gõ chuông liên
hồi. Đã giấu không cho ai biết mà nội gõ chuông giống như báo tin vui cho hàng
xóm!”
“Mấy hôm sau, bỗng có công-an phường lại nhà. Công an đến nhà là lúc nào
cũng có chuyện gì đó cho nên nội có hơi lo. Thấy dạng tên công an ngoài ngõ,
trong này nội niệm Phật để tự trấn an. Sau đó, nội cũng kể chuyện ba về Tây
Ninh rồi nội kết rằng ba đã chết ở trên đó. Rồi nội khóc…”
Mấy con tôi đâu biết rằng đối với má tôi, dù tôi còn sống, sống mà vĩnh viễn
không bao giờ thấy lại nhau nữa thì cũng giống như là tôi đã chết.
“Sau đó nội than không biết rồi sẽ ở với ai, rồi ai sẽ nuôi nội, bởi vì má
buồn rầu đã bỏ nhà đi mất. Nghe vậy, tên công an vội vàng an ủi:
– Bà cụ đừng có lo! Rồi chúng cháu sẽ đem bà cụ về ở với chúng cháu. Cứ yên
chí!”. Sau khi tên công an ra về, nội vào buồng kể lại chuyện đó cho tụi con
nghe, rồi nói: “Nội nghe thằng công an đòi đưa nội về nuôi mà nội muốn xỉu
luôn! Không phải vì cảm động mà vì sợ! Ở với tụi nó, thà chết sướng hơn!”
Vợ con tôi được đi chánh thức nên hôm ra đi bạn bè thân quyến đến chia tay
đầy nhà. Lúc mẹ con nó quì xuống lạy má tôi để giả biệt -hay đúng ra để vĩnh
biệt- tất cả mọi người đều khóc. Đó là lần cuối cùng mà má tôi khóc với bầy
cháu nội. Và tôi nghĩ rằng má tôi khóc mà không cần tìm hiểu tại sao mình khóc,
chỉ thấy cần khóc cho nó hả, chỉ thấy càng khóc thân thể gầy còm càng nhẹ đi,
làm như thịt da tan ra thành nước mắt, thứ nước thật nhiệm mầu mà Trời ban cho
con người để nói lên tiếng nói đầy câm lặng.
Bầy bạn học của các con tôi đứng thành hai hàng dài, chuyền nước mắt cho
nhau để tiễn đưa tụi nó ra xe ngoài ngõ. Tôi hình dung thấy những cặp mắt thơ
ngây mọng đỏ nhìn các con tôi đi mà nửa hồn tê-dại, không biết thương cho bạn
mình đi hay thương cho thân phận mình, người ở lại với đầy chua xót…
Mấy con tôi nói: “Nội không theo ra phi trường. Nội ở nhà để gõ chuông cầu
nguyện”.
oOo
Tôi làm việc ở Côte d’Ivoire (Phi Châu), cách xa vợ con bằng một lục địa, và
cách xa mẹ tôi bằng nửa quả địa cầu. Những lúc buồn trống vắng, tôi hay ra một
bãi hoang gần sở làm để ngồi nhìn biển cả. Mặt nước vuốt ve chân cát, tiếng
sóng nhẹ nghe như thì thào… những thứ đó làm như chỉ dành cho riêng tôi. Tự
nhiên tôi cảm thấy như được dỗ về an ủi. Những lúc đó, sao tôi nhớ má tôi vô
cùng. Trên đời này má tôi là người duy nhứt an ủi tôi từ thuở tôi còn ấu thơ
cho đến khi trên đầu tôi đã hai thứ tóc. Ngay đến đêm cuối cùng trên quê hương,
cũng chính trong vòng tay khẳng khiu của má tôi mà tôi khóc, khi gởi vợ gởi
con… Lúc nào tôi cũng tìm thấy ở má tôi một tình thương thật rộng rãi bao la,
thật vô cùng sâu đậm, giống như đại dương mà tôi đang nhìn trước mặt.
Bây giờ tôi hiểu tại sao tôi hay ra ngồi đây để nhìn biển cả
Tiểu Tử