Nhà thơ Phùng Quán (1932-1995)
1. Gặp gỡ.
Tôi chơi thân với Hải Bằng từ cuối năm 1966, lúc Hội Văn Nghệ và Ty Văn hoá
còn sơ tán lên làng Phú Vinh. Qua Hải Bằng tôi được biết rất nhiều về cuộc đời
và con người Phùng Quán. Trước đó những năm đầu 60 tôi đã đọc cuốn “Bọn Nhân
văn-Giai phẩm trước toà án dư luận” cùng rất nhiều bài viết khác, thông qua Hà
Nhật thầy giáo dạy văn và bạn bè cùng học cấp 3 Quảng Bình cho mượn. Chưa gặp
nhưng tôi đã trọng, vì đó là con người khác người. Chữ “người” thời ấy gần như
cùng chung mẫu số. Ai cũng như ai, khó mà bộc lộ cá tính trước đám đông.
Cuối năm 1973 tôi theo học trường Bồi dưỡng Những người viết văn trẻ ở Quảng
Bá. Thật may mắn. Tôi nói với Hải Bằng, em học ở Hà Nội, có dịp anh ra chơi để
được gặp anh Phùng Quán. Hải Bằng chưa ra, Phùng Quán đã lên Quảng Bá thăm
chúng tôi, hỏi thăm Hải Bằng và tình hình Quảng Bình. Hồi đó một lời nói trực
tiếp sốt nóng hơn thư từ. Thư gửi đi có lúc sáu, bảy tháng mới nhận được. Phùng
Quán đèo tôi về nhà mẹ nuôi. Một căn nhà lá nền đất, nằm sau lưng đình Nghi Tàm
bên Hồ Tây. Ông tự ghép lấy chiếc ghế bằng cành ổi, ngồi lâu ngày đôi tay vịn
nhẵn bóng. Bà cụ Hai Dơi suốt ngày gánh hàng lặt vặt lên đê Yên Phụ bán cho
người qua đường. Ông vội vã nấu cơm tiếp tôi, rồi ra đường đỡ gánh cho bà cụ
vừa về. Đêm ấy, lần đầu tiên tôi được gặp con – người – nhân – văn bằng xương
bằng thịt. Ông mặc một thứ vải thô nhuộm nâu, chân guốc mộc. Tại nơi đó, cũng
lần đầu tiên tôi được nghe nhiều bài thơ ông. Tôi không sao quên được cái giọng
đọc pha ngâm, trầm và ấm: Hồ khuya sương tịch mịch/ Trộn nước lẫn cùng
trời/ Con dế chân bờ dậu/ Nỉ non hoài không thôi…/ Tựa lưng ghế cành ổi/ Vai
khoác áo bông sờn/ Tôi ngồi đọc Đỗ Phủ/ Vợ vừa nghe vừa đan. Ba mươi năm
ly quê, cho tận mãi sau này cái giọng vẫn thế, vẫn Huế mà rất Phùng Quán. Rồi
ông im lặng, không khóc, nhưng tôi biết ông đang xe xót chìm trong mờ ảo khói
thuốc lào rít sau mỗi bài thơ.
Không sai lời hẹn, Hải Bằng ra Hà Nội. Sau bao năm xa, kể từ ngày ông vác ba
lô về làng Cảnh Dương, rồi làm phát hành sách cho ty Văn hoá. Đến nơi, Hải Bằng
dục tôi đèo xe tìm Phùng Quán. Ánh điện nhập nhoà, đường về bà mẹ nuôi đất đá
gồ ghề, chúng tôi phải xuống xe đi bộ. “Anh đi từ sáng đến giờ chưa về, giờ
không về là ở lại rồi.” – Bà cụ Hai Dơi nói vậy. Chúng tôi đến 3- Hàng Cân, nhà
chị Bội Trâm, vợ Phùng Quán đang ở. Đường phố vắng hoe, Hải Bằng cứ đứng giữa
lòng đường gọi hết cỡ:
– Quán ơi. Quán ơi. Quán ơi!…
Không có tiếng đáp lại. Hải Bắng sốt ruột:
– Phùng Quán ơi! Phùng Quán ơi!…
Tôi hiểu vì sao Phùng Quán chưa trả lời. Những năm đó bài viết đánh Nhân văn
chỉ còn lác đác, vì tất cả dồn sức vào cuộc chiến. Nhưng không vì thế mà cuộc
đấu tranh chống Nhân văn đã kết thúc. Một tiếng gọi có thể thân thiết, cũng có
thể vận hạn. Hơn nữa Phùng Quán không muốn trong đêm thanh vắng lại oang oang
hai tiếng Phùng Quán, gắn với vụ án văn chương. Từ gác hai, Phùng Quán mở cửa
nhìn xuống, hớt hãi:
– Tôn à. Nhỏ thôi, nói nhỏ thôi, ra khi mô rứa? (Tôn tức là Vĩnh Tôn, tên
chính của Hải Bằng).
Đã lâu quay quắt nhớ, quay quắt gặp, nhưng Hải Bằng vẫn xẵng:
– Mi hỏi tao ra khi mô là răng? Tao ra là đến mi liền, chứ còn đi mô nữa?
Hai người ôm lấy nhau. Hải Bằng khóc hu hu như trẻ nhỏ. Chúng tôi kéo nhau
đi ăn, dốc hết tâm sự tới sáng.
2. Những đêm ngủ.
Phùng Quán có tới ba nơi ở, Nghi Tàm, 3-Hàng Cân và Lê Văn Hưu. Mùa đông tôi
thường xuống Nghi Tàm ngủ lại. Có khi Phùng Quán nấu thêm cơm, hẹn xuống, có
khi nạo cơm cháy qua loa, rồi chuyện trò. Những bài thơ tôi viết hồi đó ông đọc
hết và còn góp ý để tôi sửa lại.
Tôn Ái Nhân, Trần Anh Trang cùng phòng, thường bảo tôi là đứa ham chơi, ít
khi ở nhà trọn một ngày. Tôi nói có việc mình mới đi. Có người gặp tôi đi theo
Phùng Quán, nhắc nhở, lãnh đạo biết đấy. Tôi kệ. Gặp được con – người – khác –
người này là quý hoá, là may mắn cho mình.
Một buổi chiều tôi vừa bước vô nhà đã gặp người khách lạ. Chưa kịp chào, anh
ấy đã tự giới thiệu:
– Mình là Tuân Nguyễn. Mình nghe nói Hoàng Vũ Thuật từ Quảng Bình ra, đang
chờ cậu tới đây.
– Cám ơn, chắc chắn anh Quán kể chứ gì.
Tuân Nguyễn vừa ở tù ra sau gần chín năm bị giam vô cớ. Không bản án, không
luận tội. Anh bị bắt cũng như được thả, đều mù mờ. Tuân Nguyễn làm ở Đài Tiếng
nói Việt Nam, đẹp trai, dong dỏng cao, đeo kính trắng. Phùng Quán nói với tôi,
Tuân Nguyễn sẽ tá túc vài ngày, nhờ bạn cho chiếc xe đạp đi lại. “Tĩnh dưỡng”
cho khoẻ rồi Tuân Nguyễn sẽ tìm cách dịch thuê mà sống. Tĩnh dưỡng là nói vậy
chứ vợ chồng Tuân Nguyễn chỉ ăn cơm với rau muống luộc, chắm nước mắm hết ngày
này qua ngày khác. Đêm lạnh, tôi được nằm giữa. Ba người đắp chung cái chăn
bông sờn. Khi Phùng Quán kéo thì Tuân Nguyễn hụt, khi Tuân Nguyễn kéo thì Phùng
Quán hụt. Chỉ có tôi được ấm. Tôi bảo, đổi chỗ em nằm ngoài cho. Tuân Nguyễn ôm
lấy người tôi: “Chín năm anh quen cái lạnh rồi. Em ngủ đi mai còn về trường,
khéo mà ngủ gục”. Phùng Quán ho lốc khốc. Bà Hai Dơi nói vọng: “Không biết đến
bao giờ mới hết lạnh”.
Tết tôi về Quảng Bình. Tuân Nguyễn gửi thư cho người bà con tập kết đang làm
cán bộ có chức vụ trên huyện, gia đình sinh sống gần làng tôi. Anh dặn khi nào
ra cậu ghé lại hỏi thăm, có gì gửi không. Tôi ghé nhà, trước lúc ra Hà Nội,
người bà con không gửi gì, kể cả thư tay, chỉ nói: “Cậu ấy làm, cậu ấy chịu”.
Tuân Nguyễn cùng Phùng Quán nghe thuật chuyện. Phùng Quán nói, nằm trong tù
chẳng ngán, chuyện vặt.
Nhiều lần đến Nghi Tàm không gặp, tôi lên 80- Lê Văn Hưu (hồi đó là nhà
khách Bộ Văn hoá). Phùng Quán được bố trí ở trong buồng một toilét không dùng
nữa. Ông phủ lên mặt toilét cái thùng gỗ làm chỗ viết. Mùa đông lót báo dưới,
trải chiếu lên trên. Nhiều khi ông và tôi không nói gì. Mỗi người theo đuổi một
ý nghĩ hoặc công việc gì đó. Ông thường hài hước: “Ở thế này là sang lắm rồi,
tầng hai hẳn hoi”. Còn tôi thì thương cho cái kiếp lao đao của nhà thơ có đến
ba nơi ở mà chỉ là nơi tạm trú mà thôi. Sáng dậy, chúng tôi ra chợ Đồng Xuân ăn
bún thang. Thứ bún thêm vào thìa ruốc nêm, ông rất thích. Về tới trường, lại có
người nhắc nhở đừng chơi với Phùng Quán, người ta theo dõi đấy. Tôi không để ý
tới câu nói, vì mình có làm việc gì đâu. Chính nhờ Phùng Quán tôi mới gặp Hoàng
Cầm, Trần Dần, Phùng Cung và một số người khác. Phùng Cung chép đề tặng tôi bài
thơ: Đêm nay sương mặn/ Bên gốc na/ Con dế khoang gãy giọng/ Đợi người về/
Ngọn đèn chai/ Tãi sáng nước dưa. Một ngọn đèn hiu hắt màu nước dưa chỉ đủ
soi cho trang giấy. Đêm đêm được Phùng Quán khêu lên, ngồi hút thuốc lào, bóng
mờ in lên vách, bên Hồ Tây để viết “Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe”.
3. In sách Phùng Quán.
Đầu năm 1981, tôi được điều chuyển từ Quảng Bình vào Huế nhận công tác Phó
trưởng Ban biên tập nhà xuất bản Thuận Hoá. Một ngày cuối xuân năm 1982, tôi
đến muộn. Trên bàn tôi đã có bản thảo “Buổi đầu thử thách” của Đào Phương, với
dòng chữ ghi: Anh Thuật tổ chức biên tập để in đúng kế hoạch. Ký tên Vương
Hồng. Tôi mừng thầm. Đây rồi, lại gặp nhau. Bởi tôi đã đọc nó vào tháng 4,
tháng 5 gì đó tại căn gác toilét Lê Văn Hưu. Bấy giờ không có hai chữ Đào
Phương, mà là Phùng Quán. Nét chữ nghiêng đều đặn, mực tím không lẫn vào đâu
được. Khác chăng bản thảo bị gạch xoá khá nhiều. Chắc đã qua tay một người đọc.
Tôi tìm cách thông tin cho Phùng Quán. Ông viết mấy dòng rất kín đáo: Cứ làm
cho anh, anh xin Đào Phương rồi. Cẩn thận. Tôi đã gặp Đào Phương, tác giả cuốn
“Thồ Điện Biên” ở Hà Nội, bây giờ không hình dung nổi. Tôi hỏi ông Lê Trọng
Sâm, Phó tổng biên tập. Ông ấy bảo mình rất biết, giúp Đào Phương với. Lặng lẽ
đọc lần nữa, cố lấy lại những đoạn không nên bỏ, giữ lại những chữ cần thiết,
rồi tôi giao cho cô Loan đánh máy, ký tên biên tập, trình Tổng biên tập duyệt.
Năm 1983 sách đến tay Đào Phương cùng nhuận bút do Lê Trọng Sâm và tôi ra Hà
Nội giao tại nhà. Đào Phương cười nói vui vẻ, cám ơn tôi. Có lẽ Đào Phương
tưởng rằng tôi không biết bản thảo này là của Phùng Quán. Hồi ấy, tuy đất nước
đã thống nhất mấy năm, nhưng vẫn còn cách nhìn cách nghĩ cũ kĩ, ràng buộc lắm
thứ. Chưa đổi mới. Cánh Nhân văn – Giai phẩm im lặng chờ đợi. Giả dụ sự việc ấy
mà lãnh đạo nhà xuất bản biết, muốn hay không tôi sẽ bị đuổi việc ngay lập tức.
Cho dù tôi nói là tôi không biết. Tôi tin cho Phùng Quán khoản nhuận bút và
sách tác giả. Sau này, ông bảo tôi, Đào Phương cho lại mình một ít. Tôi không
rõ là bao nhiêu, nhưng đối với ông là quý lắm, theo cách nghĩ của ông. “Buổi
đầu thử thách”, chính là tập một của ba tập tiểu thuyết “Tuổi thơ dữ dội” sau
này.
4. Phùng Quán đọc thơ ở Huế, in thơ ở Đà Nẵng.
Tôi đang dẫn chương trình Đêm thơ tại 26-Lê Lợi, do Phân hội Văn học tổ
chức. Vinh Nguyễn nói nhỏ vào tai: “Anh Phùng Quán và chị Hương Quân ở Hà Nội
vừa vào”. Tôi ra cửa đón ông và chị, đồng thời giới thiệu với Nguyễn Khoa Điềm.
Anh Điềm bắt tay thăm hỏi, nhắc tôi giới thiệu Phùng Quán đọc thơ nữa nhé. Sau
vài lời phi lộ, Phùng Quán chắp tay như cúng lễ đọc ngay bài thơ Tạ:
Ngày ra trận
Tóc tôi còn để chỏm
Nay trở về
Đầu đã hoa râm
Sau cuộc trường chinh ba mươi năm
Quỳ rạp trán xuống đất làng
Con tạ…
Rồi ông quỳ rạp thật. Ông đứng lên trong tiếng vỗ tay không ngớt. Đêm thơ
lắng lại để nghe Phùng Quán đọc tiếp những bài thơ khác. Nếu tôi không nhầm,
năm 1986, đêm đầu tiên trở về quê hương, sau bao năm xa cách và lần đầu tiên
ông đọc thơ tại nơi chôn rau cắt rốn của ông. Mặc dù bài Tạ được ông viết từ
1975. Những ngày sau đó ông trở thành khách quý của những người ngưỡng mộ ông.
Đám trẻ tuổi chúng tôi thường theo ông để được “ăn theo”, “uống theo” “nói
theo” cho có bạn.
Một năm sau, Phùng Quán vẫn chưa về nhà. Hương Quân đã ra Hà Nội. Ông nói
với tôi, khi đi anh nói với chị ra phố mua bao thuốc lá. May mà bấy giờ đã có
điện thoại liên lạc, không thì đã phải báo mất tích từ lâu.
Phùng Quán vào Đà Nẵng. Ông đọc thơ tại Nhà hát thành phố, ở huyện Điện Bàn
và nhiều nơi khác. Trở lại Huế, ông cầm xấp báo Đà Nẵng chủ nhật, ra ngày
15/2/87, đăng “Trường ca cây cà”, ký tặng bạn bè. Tôi được một tờ. Đầu chương
một, ông viết: Ba mươi năm trước/ Tôi chết giữa Hồng Hà sóng dữ/ Tôi lại
hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn Giang/ Chính cây cà quê mùa lao lực/ Đã dạy tôi
dũng khí bền gan! Đó là bài thơ đầu tiên ông in tên thật của mình, mãi sau
tạp chí Sông Hương mới tiếp tục đăng những bài khác.
5. Kiểm điểm vì Phùng Quán.
Chia tỉnh, tôi về lại Quảng Bình làm Tổng thư ký (Chủ tịch Hội bây giờ). Gần
hai năm sau, đầu tháng 4/1991, Phùng Quán từ Hà Nội vào thăm chúng tôi. Mừng
lắm, không ngờ lại được gặp ông sau ngày chia tỉnh. Tôi hội ý với Ban thư ký
rồi lên kế hoạch, đồng thời đi cùng ông trên chiếc xe la-đa cũ, tài sản lớn
nhất được chia ra từ Hội Bình Trị Thiên.
Chiều 12/4 chúng tôi đến Hoàn Lão. Ông Lê Chiêu Nẫm-Bí thư Huyện uỷ Bố Trạch
và anh Thoan – Trưởng Ban Tuyên giáo niềm nở đón tiếp chúng tôi. Anh Thoan dẫn
chúng tôi về giao lưu với Trường Bồi dưỡng giáo viên của huyện. Sau buổi tiếp
xúc ấy, trường Phổ thông trung học số 1 đăng ký mời Phùng Quán nói chuyện thơ.
Hôm sau trên đường về anh Thoan tìm gặp xin chuyển địa điểm về nhà Văn hoá
trung tâm để bà con thị trấn được nghe nữa. Cuộc nói chuyện không thành. Họ gọi
điện thoại cho tôi xin hoãn. Tôi hỏi, vậy thì bao giờ có thể tổ chức? Họ trả
lời không biết nữa.
Thế nhưng Phùng Quán vẫn tiếp tục được mời nói chuyện ở trường Phổ thông
trung học Đào Duy Từ và trường Cấp 2 Đồng Mỹ. Người nghe đứng chật ra tận hành
lang. Anh Lại Minh Thương, bạn tôi, học sinh cũ của trường cấp 3 Quảng Bình, là
đội trưởng hợp tác xã đánh cá Hồng Mỹ, Bảo Ninh nghe tin, mời Phùng Quán và tôi
sang nhà thết đãi, nghỉ lại đọc thơ cho xóm giềng. Tôi sung sướng và cảm động.
Đâu đâu người ta đều ngưỡng vọng nhà thơ, muốn được nghe thơ, được nhìn rõ con
– người – nhà – thơ như thế nào. Đó là dấu hiệu văn hoá lành mạnh. Ông nói
chuyện say sưa, đọc thơ say sưa, hồn nhiên như người “cấm khẩu” lâu ngày bỗng
nhiên bật lên tiếng nói. Không lần nào giống lần nào, con người ấy có sức cảm
hoá đến kỳ lạ. Vẫn cái giọng trầm và ấm, cái giọng trải qua nhiều cay đắng
nghiệt ngã, kiên gan trước cuộc đời ba động, đã đúc nên thứ âm thanh như có
thần phép kia.
Nhưng tất cả những cuộc đi đâu về đâu đều có người theo dõi. Chúng tôi đi là
họ đến. Họ cấm không được tổ chức gặp gỡ, đọc thơ hay nói chuyện gì nữa. Phùng
Quán là Nhân văn. Những ngày lưu lại nhà tôi đã thành một sự kiện.
Tôi nhớ sáng nào vợ tôi cũng dọn sẵn trên bàn một chén cà sống, bát ruốc,
góc chai rượu ngon. Khi thì đĩa bánh cuốn, khi thì cháo trắng. Những thứ hợp
khẩu với ông. Tôi cụng với ông một ly, nhấm nháp qua loa để đến cơ quan kịp giờ
làm việc. Ông ngồi bên chai rượu cho tới khi tôi về để còn đi thăm những người
quen biết.
Thế rồi đột ngột tỉnh giao tôi nhiệm vụ tháp tùng đoàn của Bộ Văn hoá lên
hai huyện Tuyên Hoá và Minh Hoá. Ông rất muốn theo tôi. Khi hỏi đi cùng ai, ông
bảo, mình trở thành kẻ bị săn đuổi tới nơi rồi. Thôi đi đi, mình không đi nữa.
Tôi bàn với ông lên nhà Hải Kỳ, ở chơi vài ngày đợi tôi về. Ông ừ. Sau này được
Hải Kỳ kể lại, ông và Hải Kỳ vừa ra khỏi nhà, lập tức công an vào hỏi. Minh Văn
con trai Hải Kỳ, đang học cấp hai, khôn khéo đem giấu cái bị cói của Phùng Quán
ra sau bàn thờ, không thì họ lấy cũng nên.
Quả như vậy, khi tôi về đã thấy giấy mời lên làm việc với Thường vụ Tỉnh uỷ.
Người trực tiếp gặp tôi là ông Phó Bí thư Thường trực cùng một số người nữa.
Ngồi vào bàn ông nói ngay: “Anh là cán bộ lãnh đạo Hội. Phùng Quán là ai, anh
biết rồi đấy. Gần nửa tháng qua anh đưa anh ta đi đâu, gặp gỡ ai, nói chuyện
gì”. Tôi trả lời ngay không cần nghĩ ngợi: “Phùng Quán là nhà văn thế hệ chống
Pháp. Năm 1988 anh đã được phục hồi hội viên. Anh công tác ở cơ quan văn phòng
Bộ Văn hoá, đã từng in…” Chưa dứt lời ông cắt ngang với hai hàm răng rít chặt:
“Không nói nhiều, anh về viết bản kiểm điểm gửi cho chúng tôi. Cần nhớ rằng anh
thuộc diện cán bộ chúng tôi quản lý…”. Tôi không đáp lại nữa. Ra về mà lòng cứ
ấm ức. Chẳng lẽ thế? Chẳng lẽ người ta vẫn còn kỳ thị, nghi ngờ đến thế? Phùng
Quán đã xuất hiện ở Huế, lúc ông làm Phó Giám đốc Công an cơ mà. Ông không biết
Phùng Quán đã đọc thơ và nói chuyện nhiều nơi, đã in trên báo Đà Nẵng và tạp
chí Sông Hương hay sao. Vả lại, hồi năm 81, 82 khác. Năm 86, 87 đất nước đã đổi
mới, văn nghệ được cởi trói. Giờ đã là 91. Ông định làm gì nữa đây?
Tôi về nhà viết bản kiểm điểm gửi cho bốn tổ chức, Thường vụ Tỉnh uỷ, Đảng
Đoàn Văn nghệ, Ban Thư ký, Chi bộ cơ quan Hội. Những dòng tôi trích dưới đây y
nguyên trong bản đánh máy trên mặt giấy pơ-luya màu thẩm hồi đó. Tất nhiên tôi
phải mất hẳn một buổi tìm lại từ “thư viện gia đình”. Tính tôi luộm thuộm,
không ngăn nắp như người ta. Mở đầu tôi viết: “Nhà văn Phùng Quán, hội viên Hội
Nhà văn Việt Nam, tác giả tiểu thuyết “Vượt Côn Đảo”, gần đây với bộ tiểu
thuyết ba tập “Tuổi thơ dữ dội” được tặng thưởng văn học của Hội nhà văn,
chuyển dựng thành phim được tặng thưởng phim hay năm 1990…” Không lâu, trên một
trang báo Nhân Dân, in danh mục những phim chiếu phục vụ trong dịp Đại hội
Đảng, có “Tuổi thơ dữ dội”. Trang năm, cuối bản kiểm điểm ở phần nhận khuyết
điểm, tôi thẳng thừng: “Song không khí hôm Thường trực Tỉnh uỷ làm việc, rõ
ràng là nặng nề. Có một số việc tìm hiểu chưa cụ thể vội vàng kết luận. Thí dụ:
Đồng chí Phó Bí thư Tỉnh uỷ cho rằng, tôi phải chịu trách nhiệm trước Thường vụ
toàn bộ sự việc trên. Đồng chí còn nói: Tôi đã bất chấp chỉ thị cấp trên, tiếp
tục tổ chức để anh Phùng Quán nói chuyện hai nơi (tức trường Phổ thông trung
học Đào Duy Từ và trường Cấp 2 Đồng Mỹ), lại còn qua cả Bảo Ninh.
Tôi là một nhà văn, được Thường vụ giao trọng trách quản lý Hội Văn Nghệ,
tôi có nhân cách và lòng tự trọng của mình. Việc gì chưa rõ ràng thì cần được
nhắc nhở trao đổi rút kinh nghiệm, sai trái thì kiểm điểm, cao hơn thì kỷ luật.
Nhưng không thể xử sự với tôi bằng một thái độ vội vã kết luận, khẩu khí căng
thẳng khi chưa điều tra kĩ lưỡng. Việc đó rõ ràng không tạo thuận lợi cho tôi
trong việc quản lý Hội và đội ngũ văn nghệ sĩ trong tình hình còn phức tạp hiện
nay”.
Bản kiểm điểm gửi đi. Họ im lặng không tiếp tục hành xử tôi nữa. Nhưng rõ
ràng tôi không gặp thuận lợi về sau.
Năm ngoái, Phùng Quán được Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Tôi
định cầm mấy bộ sách tuyển tập thơ, tiểu thuyết của Phùng Quán và những cuốn
khác do Ngô Minh biên soạn đến nhà ông phó bí thư, chỉ để nói với ông một câu.
Ông thấy không, cái bằng chứng này cao hơn cả. Nếu Phùng Quán có gia đình ở
đây, chắc ông phải ngậm ngùi tổ chức lễ trao Giải thưởng Nhà nước cho Phùng
Quán. Mặc dầu ông đã nghỉ hưu lâu rồi. Nhưng chuyện đời, lẽ sống con người đâu
có nghỉ hưu!
6. Lễ truy điệu có một không hai.
Tôi thường tâm sự với lớp trẻ, đã làm nhà văn phải có hai nhân cách. Nhân
cách sống và nhân cách viết. Nhân cách viết, có thể có nhiều người thành đạt.
Nhưng nhân cách sống không hẳn ai cũng được như nhau. Có người im lặng viết,
miễn sao tròn một công dân. Có người viết tốt, sống tốt mà vẫn vào vòng lao
luý. Phùng Quán thuộc hạng người này. Cả đời ông là một chuỗi đau thương. Nhưng
không lúc nào ông chùn bước. Cuộc đời ông, ai đã biết là mến mộ, kính trọng.
Ông bị bệnh gần hai năm nay. Phải nằm ngửa kê tay vào giá đỡ trước mặt mà viết.
Một bàn viết ngược. Xưa nay ông đã viết, phải ngồi vào bàn, dù chiếc bàn ấy là
tấm ván, hộp gỗ chăng nữa. Giấy của ông được kẽ dòng như loại giấy vở học trò.
Phải là người có khí chất sống, khí chất văn chương mới nghĩ ra cái giá đỡ kỳ
quái để viết cho tới dòng sau chót đời mình.
Tôi định bụng bàn với nhà văn Hữu Phương, bấy giờ là phó chủ tịch Hội, tổ
chức lễ truy điệu vọng cho ông. Nghĩ lại, bao nhiêu chuyện còn đó, người ta còn
đây. Thử có ích gì? Thế là tôi rủ Hữu Phương cùng một số anh chị em, học sinh
yêu văn học lên nhà Hoàng Quang Đông chơi. Đông là thầy giáo, bạn tôi, đã có
lần gặp Phùng Quán. Tôi thông báo nhà văn Phùng Quán mất rồi, lúc 16h 50’, ngày
22/01/1995. Tin này nhờ một người bạn điện thoại vào cho tôi hay. Tất cả bàng
hoàng. Im lặng. Không ai nói câu gì. Trong khoảnh khắc đó, tôi lấy ra tờ giấy
trắng, chiếc bút dạ, ký hoạ rất nhanh chân dung Phùng Quán. Sau này tôi không
hiểu vì sao mình vẽ được như vậy. Một chân dung Phùng Quán trăm phần trăm.
Gương mặt hơi trẻ. Chân dung ấy tôi ép plastic để trong “thư viện gia đình” như
một báu vật.
Không ai bảo ai, người kê tấm ván vuông vức lên chẻ ba cây đào, người hái
hoa cắm vào bình, người tìm thứ làm bát hương… Trong làn khói hương thơm phức,
tất cả như những pho tượng đứng bất động. Tôi lên tiếng trước: “Chúng em xin
cúng vọng anh, một nhà thơ tài hoa, một nhà văn suốt đời chỉ viết trên giấy kẽ
dòng, một nhân cách sống hiếm thấy”. Mọi người lặng lẽ bước lên cắm những que
hương trên chiếc bàn thờ có một không hai. Thầy giáo Hoàng Quang Đông rưng rưng
vừa đọc vừa ngâm bài thơ “Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe”.
Lúc ấy là 4h chiều ngày 28/01. Sau sáu ngày Phùng Quán từ giã bạn bè người
thân ra đi.
Hoàng Vũ Thuật