Tuần rồi, vợ chồng David Bích Thủy, ở bên nhà đáp chuyến bay du lịch qua
Canada ghé Toronto thăm gia đình tôi. Bích Thủy, em của Huỳnh Thị Ngọc Trảng,
(bạn đọc đã biết qua trong truyện Gác Xếp của tôi) sau nhiều năm gặp lại cô
hoàn toàn thay đổi từ sắc diện tới tánh tình: xinh đẹp, lịch thiệp và khả ái.
Không như ngày xưa, sau những giờ học đàn hát, Bích Thủy thấy ông thầy dạy nhạc
là tôi, hiền lành, ít nói, hay nhường nhịn nên dễ bề ăn hiếp; hễ đề cập tới bất
cứ chuyện gì lớn nhỏ, ngoài âm nhạc, đến hồi gay cấn cô như con nhím xù lông,
cô phùng mang, trợn má nhảy chồm chồm y hệt con trai lấn lướt tôi, ăn thua đủ
với tôi cho bằng được. Nhiều phen biết mình vô lý rồi đuối lý cô phụng phịu làm
mặt giận, cô giãy nẩy đòi tôi phải năn nỉ cô, bắt tôi chở cô bằng xe Honda Dam
của cô đi ăn kem tuốt bên Dakao, (dĩ nhiên tôi phải móc hầu bao dù nghèo rớt
mùng tơi) trong khi tiệm kem gần nhà ở Cầu Kho thì lắc đầu nguầy nguậy. Chiều
cô, tôi phóng xe phom phom trong cơn gió nồng nã. Lúc lạng vòng hồ con rùa tôi
bị cô chọt móng tay nhọn liễu vào ba sườn, gắt “răng anh chạy mau dữ rứa?”. Lúc
tôi chậm lại cô cũng gắt “răng anh chạy chậm dữ rứa?”, rồi không biết nghĩ gì
Bích Thủy chợt phá lên cười ngặt nghẽo, chu mỏ thổi phù phù vào lưng tôi rồi áp
má vào. Nghĩ lại tôi mắc cười cho cái tánh trẻ con của cô và cái tật nhát gái
của mình từ cái hồi thật xửa thật xưa thân ái đó.
Đặt nhẹ tách cà phê xuống bàn, đôi mắt đẹp của Bích Thủy chợt ánh lên niềm vui.
Nhìn cây đàn guitar cũ kỹ dựng trong góc, cô học trò xứ Huế ôn tồn nói: “Ông
thầy còn đàn hát như xưa, ông thầy hì?”. Tôi lắc đầu cười đàn thì còn nhưng hát
thì chịu. Ngày xưa giọng hát của tôi khỏe như lệnh vỡ, không cần micro, micriết
hay loa liết chi; còn bây giờ dây thanh quản đã chùng xuống tệ hệ như sợi tơ
chùng.
Ngược lại qua ngón đàn điệu nghệ của người bạn đời David, Bích Thủy say sưa
thả hồn qua từng lời ca tiếng hát. Giọng hát chanh chua, lập cập rớt nhịp ngày
xưa của cô gái Huế giờ được thay bằng tiếng hát ung dung, ngọt ngào, truyền
cảm. Căn nhà chúng tôi từ lâu lắm vắng tiếng cười đùa đàn địch xôn xao nay được
tài nghệ của đôi bạn làm cho sinh động hẳn lên. Nắng chiều xuyên qua cửa kính
làm hình bóng của họ rạng rỡ như một bức tranh sống thực.
Bích Thủy hát một lúc ba bản tình ca (*) tôi viết tặng cô vào giữa năm 1966
ở Sài Gòn. Cả ba bài hát đều đã trên 50 năm rồi tôi không còn nhớ nổi một lời
nào. Cô làm tôi thật xúc động. Lắng nghe cô hát với tiếng đàn êm dịu của David
lòng tôi không ngừng dâng lên từng đợt sóng cảm hoài.
Tôi vẫn nhớ thuở mới về với Bích Thủy, David là giáo sư Anh ngữ của các
trường tư thục Sài Gòn. Anh chàng đạo mạo đến cứng ngắc, chẳng chảy một chút
máu văn nghệ văn gừng nào trong huyết quản của nhà mô phạm. Vậy mà vướng phải
cô gái Huế có tâm hồn yêu ca hát này, đã uốn nắn làm sao mà nay chàng trổ hết
ngón đàn tài hoa nâng tiếng hát của người trăm năm bay bổng. David, chàng trai
nước Mỹ tốt nghiệp trường đại học Stanford, California, yêu nước Việt, yêu cô
gái Việt, nói tiếng Việt rành như lặt rau.
Lúc bịn rịn ra về, Bích Thủy đặt vào tay tôi một xấp giấy học trò đã ố vàng
bọc cẩn thận trong bao nylon trong suốt. Giọng buồn buồn, Bích Thủy nói thật mơ
hồ: “Anh đọc hồi ký này đi, rồi buồn với chị em em”.
oOo
Đời tôi có rất nhiều bạn bè, già trẻ lớn bé, nam hay nữ không thiếu một ai.
Tất cả xa hay gần, giàu hay nghèo, bình dân hay quí phái đều lương thiện. Có
người còn đó, có người đã chết đi. Người còn sống không nói làm gì, người chết
thường hay để lại cái gì đó để người thân ôm lấy mà sầu mà thương mà nhớ. Như ông
Lương Hữu Thế chẳng hạn.
Ông trung úy Biệt Kích Dù một thời oanh liệt này, từ khi rời khỏi căn gác
xếp của người tình Huỳnh Thị Ngọc Trảng trên đường Lương Hữu Khánh, ông đã để
lại trên gác một nỗi buồn sâu thẳm. Nỗi buồn đó trải dài trên từng trang giấy
học trò ông Thế gọi là hồi ký. Lúc David quét dọn màng nhện trên trần nhà tình
cờ tìm thấy xấp giấy đã vàng ố này, đúng lúc vợ chồng anh qua Canada, Bích Thủy
mang theo.
Khi rút tập hồi ký ra khỏi bao nylon, việc đầu tiên đập vào mắt tôi là cái
tựa “Hồi Ký Lương Hữu Thế” viết trong ngoặc kép. Sau chữ Hồi Ký, ba chữ Lương
Hữu Thế được (hay bị) gạch bỏ bằng một gạch đỏ rất thẳng nét. Không biết ông
Thế hay Ngọc Trảng đã dùng viết nguyên tử gạch bỏ tên họ Lương Hữu Thế với dụng
ý gì đó. Cũng có thể là một cái “mode” của tựa đề không chừng?
Tôi chăm chú đọc từng trang hồi ký của ông Thế mà nghe lòng bùi ngùi. Dù
không tin vào sự tuyệt tình của kiếp số, tôi vẫn phải tin vào vận mệnh thê thảm
của hai con người: Lương Hữu Thế và Huỳnh Thị Ngọc Trảng. Trong xấp hồi ký của
mình, ông Thế viết:
“Tôi, Lương Hữu Thế, thuộc thế hệ lớn lên trong chiến tranh. Là lính tác
chiến sống chết ngoài mặt trận nhiều hơn trong thành phố nên tôi không còn tâm
trí nghĩ đến chuyện yêu đương, cho tới khi tôi gặp Ngọc Trảng như một duyên
phận đưa đẩy từ kiếp nào. Nhưng thời buổi loạn lạc, đường binh nghiệp vẫn đẩy
tôi đi vào chiến trường nên dù yêu nhau tha thiết rất ít khi Ngọc Trảng và tôi
ở bên nhau.
Rồi mất nước, đi tù Cộng sản tôi mới biết mình bị lừa. Từ trại tù “cải tạo”
Suối Máu tới Bù Gia Mập tôi đã manh nha ý định vượt ngục. Khi nghe tin mình sắp
chuyển trại ra Bắc, lợi dụng đêm khuya trời mưa như trút nước tôi trốn khỏi
trại giam, như con thú bị săn đuổi tôi cố gắng chạy khỏi vùng này càng xa càng
tốt.
Trại tù Bù Gia Mập cách Sài Gòn khoảng 80 cây số. Nếu đi bằng xe đò hay xe
gắn máy mất chừng nửa ngày đường. Riêng tù trốn trại như tôi, dù nhờ trời phù
hộ, cũng đã nuốt hơn nửa tháng trời tôi mới mò về tới Sài Gòn. Để tránh tai mắt
soi mói quanh vùng, tôi chỉ di chuyển về đêm, vừa đi vừa nghỉ, cảnh giác cao độ
và lẩn tránh tối đa khi trời vừa rạng sáng. Di chuyển ban đêm tuy lắm rủi ro
nhưng có cái lợi là ít bị phát giác. Hơn nữa trong thời chiến, Biệt Kích Dù như
chúng tôi lạc trong rừng dù ngày hay đêm đều biết thuật mưu sinh thoát hiểm.
Đây là lúc tôi phải áp dụng để sống còn.
Khi biết mình đã chạy xa khỏi vùng kiểm soát của Bộ đội trại giam tôi vẫn đi
nhưng chậm lại. Bằng mọi giá, tôi băng rừng, vượt sông, lội suối hướng về Sài
Gòn. Mặc dù tôi cố nhín khẩu phần cơm cháy lén mang theo, nhưng sau một tuần
cũng không còn sót hột nào. Tôi vẫn đi, đói thì ăn lá rừng, trái điểu hoang,
nuốt sống ếch nhái, uống nước suối, nước ao hồ cầm hơi. Đôi khi lủi vô ruộng
bắp hay rẫy khoai mì của dân tôi trộm ăn lấy sức. Ngày thứ mười, khi băng qua
ngọn đồi tre lồ ô tôi gặp hai vợ chồng người Thượng (vùng này dân tộc Sê-Tiêng
chiếm đa số) đang ăn cơm dưới bụi tre thấy tôi xơ xác họ tốt bụng ngoắc vô cho
ăn, tôi nhớ hoài.
Khi màn đêm vừa buông xuống tôi lột đôi giày rách bươm bơi qua sông bằng một
bọng cây khô. Đây là chi lưu sông Vàm Cỏ Đông, con sông từng diễn ra nhiều trận
đánh khốc liệt. Nhánh sông nhỏ thôi, nước lừ đừ chảy lấp lánh ánh sao trời đủ
để tôi nhớ lại bài học vượt sông ngoài bãi tập Truờng Bộ Binh Thủ Đức năm nào.
Lên bờ trời lạnh run, chân đau buốt. Tôi cởi quần áo vắt khô rồi mặc vào mới
thấy mình đuối sức. Chọn một nhánh cây vừa tầm tôi trèo lên ngủ dưỡng sức. Sáng
sớm hôm sau đi thêm ba ngày nữa, tôi cố gắng lẫn tránh những nơi có người, có
nhà dân, khu kinh tế mới, kể cả trại cùi…Cứ trong rừng mà đi tới chiều thì nghe
tiếng xe hơi chạy trên đường lộ, tôi vội lùi sâu vô cánh rừng nằm rạp xuống
nghe ngóng. Khoảng năm mười phút sau tôi nhõm dậy nương theo cánh rừng dọc con
lộ lầm lũi vượt qua một ngọn đồi thấp thì gặp xe lửa chở hàng đang qua cầu chạy
thật chậm. Tôi bám theo nhảy lên toa chứa hàng chui vào một lỗ trống ẩn núp. Dù
mệt lả, con mắt nặng trĩu cố mở ra nhưng không cưỡng lại nỗi, tôi phó mặc cho
trời nhắm mắt ngủ lúc nào không hay. Khi tàu ngừng lại tôi mới biết mình vừa tới
ga Bình Triệu.
Các trang kế tiếp, ông Thế kể về cuộc sống trôi sông lạc chợ của mình làm
tôi liên tường tới một thời tôi cũng lang thang đầu đường xó chợ như ông. Tôi
cũng quí ông Lương Hữu Thế ở sự tiết chế, ở lòng tự trọng, ở cái nhân cách của
một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tuy sa cơ thất thế ông vẫn đứng thẳng,
không rụt rè, nhút nhát, không cúi đầu bi lụy. Ông viết:
Sài Gòn trời đất thênh thang vậy mà không một chỗ nào cho tôi dung thân.
Suốt thời gian chạy trốn tôi luôn luôn nghĩ tới Ngọc Trảng, nôn nóng mnốn gặp
lại người phụ nữ tri kỷ của mình. Vậy mả khi đứng ở ngã ba đường Lương Hữu
Khánh, Bùi Thị Xuân tôi lại băn khoăn. Nhìn lại mình, tôi không hề than thân
trách phận, không oán trời trách đất hay trách cứ ai, nhưng sẽ tự trách mình
nếu vì bản thân mà liên lụy tới Ngọc Trảng là điều không thể. Nghĩ vậy tôi lặng
lẽ bỏ đi .Tôi đi nhưng không đi trong dáng đi của kẻ tuyệt vọng. Tôi đi đứng
bình thường, tự nhiên như người tự do đi lại. Từ đó tôi sống như phường trôi
sông lạc chợ giữa Sài Gòn đã đổi tên.
Cảnh đời có những cái bất ngờ khó có ai lường trước được. Oai hùng như ông
Trung úy Biệt Kích Dù Lương Hữu Thế có lúc thấy ông cũng thật lạ đời. Từ khi bị
lưu đày ngay trên quê hương của mình lòng ông lại… “nổ” ra thơ. Ông lính rừng
trở thành nhà thơ thất chí. Thơ bạc phần bạc phước theo bước chân ông lang bạt
kỳ hồ, đêm hôm cùng ông rúc đại vô cái hốc bà tó nào đó của nhà ga xe lửa chợ
bùng binh, ngủ bậy:
“Nửa đêm nằm mộng thấy trời xanh. Trên thân tôi tàu chạy vòng quanh. Giựt
mình tỉnh giấc tai còn thoáng. Một tiếng còi tàu rúc lạnh tanh”.
Đêm lang thang ở Ngã Tư Bảy Hiền, ông không có nhà để ngủ, thấy quầy bán
nước mía bên hè phố ông bèn rúc đầu vô trong lòng xe nằm co quắp, ông ngủ với
câu thơ trào lộng vừa bi vừa hài:
“Một góc đen thui một góc đời. Tôi nằm trong đó ngủ buồn chơi. Nửa đêm gió
lạnh thân co quắp. Trời thương trời đắp cái tả tơi”.
Tôi không biết trên đời này có ai khác từng ngủ trong lòng xe nước mía như
ông Thế hay không, nhưng tôi biết ông Thế không tài nào ngủ được vì chật, nóng,
ngợp, muỗi, lạ chỗ, nhất là vì… ông mắc làm thơ nhớ em:
” Tôi gặp em một đêm không sao. Con trăng chết giữa đám mưa rào. Vì yêu
trong cảnh đời bạo ngược. Em vội biệt mù theo chiêm bao”.
Thơ của “nhà thơ thất chí” như ông Thế quả là thê thảm, chẳng có cảnh nào
vui. Ngay cả cái đêm ngủ lậu trên gác trọ, dù một đêm thôi, ông cũng cẩn thận
nhờ cô bạn nhỏ chủ quán trọ tốt bụng khóa cửa ngoài để lỡ nửa đêm Công An thình
lình đi xét “hộ khẩu” nghĩ phòng trống không ai ở. Ông Thế nằm lặng trong đó
tha hồ nhai cái cơ cực cay đắng suốt đêm rồi cũng ứa ra thơ:
“Cửa phòng tôi khóa ngoài mấy lượt. Nằm bên trong ngủ thật ê chề. Nhiều đêm
nghe tiếng đời xuôi ngược. Tưởng bước em xưa nhớ lại về”.
Một khi con người khốn khổ đi đến tận cùng nỗi khốn khổ, cuối cùng trời cũng
để mắt đoái thương. Lần này ông Thế kể thật thoải mái:
Một buổi sáng trời trong mây trắng gió hiu hiu, đời nghiêng nghiêng, thế
thái nghiêng nghiêng xui tôi mò xuống bến Hàm Tử, nhằm giờ thiêng tôi “lượm”
được một chân bốc vác hàng hóa trên những chuyến ghe cập bến. Trong số 13 người
thợ, với sức làm việc của tôi gần gấp đôi người khác khiến cô Lỳn, con ông bà
chủ ghe Chợ Lớn, mỉm cười hài lòng, song lúc đếm thẻ trả tiền cô không bao giờ
nhìn thẳng mặt tôi. Tôi biết cô sợ vết sẹo chai lì, nổi cộm, dài sọc, xám ngoét
như con đỉa trâu nằm vắt xéo trên gương mặt dữ tợn của “Thế chém” này. Cả những
thầy thợ khiêng vác trên ghe thấy tôi ham việc cũng lườm lườm ra vẻ không ưa.
Nhưng mà không sao, không sao. Miễn có cơm ăn áo mặc hàng ngày, ban đêm có ngủ
bờ ngủ bụi cũng tốt. Miễn là đừng ai đụng tới mình là được rồi.
Ấy vậy mà có anh mặt rô Chợ Lớn, cũng thuộc giới thợ thuyền bốc vác dám vuốt
râu hùm Lương Hữu Thế mới mệt. Hình như trong cuộc đời làm người hiếm khi ông
Thế được yên thân. Ông kể:
Sẫm tối thứ bảy vừa xong việc, lãnh lương, tắm rửa, cơm nước dưới ghe xong
tôi thay đồ lên bờ tản bộ về hướng chợ Cầu Muối tìm chỗ ngủ. Đã nhiều đêm tôi
từng mò xuống chợ Kim Biên, Chợ Lòn ngủ bụi. Chơ Kim Biên nằm sát chợ vải, chợ
đèn lồng, nổi tiếng sầm uất với đủ loại mặt hàng từ thượng vàng đến hạ cám. Chợ
nằm trên đường Vạn Tượng bị nhiều cửa hàng lấn chiếm trở nên chật chội, bát
nháo. Nhờ vậy ban đêm là chỗ tương đối lý tưởng cho những phần tử cù bơ cù bất
như tôi ngủ bụi. Để tránh bị bắt, tôi phải thường xuyên đổi chỗ ngủ nên lần này
tôi thả ngược về hướng Cầu Muối trú đêm.
Ánh trăng thượng tuần tháng tám chờn vờn trôi dưới sông kéo tôi xuống bến
ngắm con trăng đục ngầu. Ngồi trên mõm đá chung quanh không có bóng người lai
vãng, vừa châm điếu thuốc chợt nghe có tiếng “Nó đó! Mã đại ca!” (bằng tiếng
Tàu) là tôi biết có chuyện rồi.
“Mã đại ca” tức Mã Tèn, từng là tay khét tiếng trong giới giang hồ đại đạo.
Mã Tèn chuyên xử dụng ngón Cầm Nã Thủ và Long Trảo Thủ để hạ những tên sừng sỏ
ở cả hai vùng Bình Đông, Bình Tây, Chơ Lón. . Có lần giành địa bàn làm ăn, Mã
Tẻn mạnh tay đánh chết địch thủ đã bỏ trốn qua Vân Nam. Nhiều năm y biệt tích
giang hồ chúng nay y lại tái xuất ở đây.
Nhìn ra tôi thấy một đám lô nhô đang hung hổ bước tới. Lúc chúng tới gần tôi
mới nhận ra thằng Nghiềm mặt la mày lét, cùng đội bốc vác với tôi dưới bến Hàm
Tử. Háng ngày váo giờ giài lao nó hay rề rà bên tôi nịnh hót, điếu đốm, ai ngờ
nó “cõng rắn” tới mổ tôi đây. Thời trôi nổi trong giới giang hồ tôi đã quá quen
cái cảnh ỷ thế hiếp cô nên tôi vẫn tỉnh bơ ngồi hút thuốc phà khói về hường bọn
chúng.
Dưới ánh trăng lờ mờ, bọn chúng có sáu tên mặt mủi choẹt, trừ tên xì thẩu
“Mã đại ca” bụng bư, đầu trọc lóc, mắt hí rị, ria mép lơm xơm.là đáng mặt đại
ca. Đứng xoạt cẳng trước mặt tôi, tên “Mã đại ca” hất hàm sẵn giọng: “Nị. Lương
Hữu Thế?”. Búng điếu thuốc xuống sông, tôi chỉa ngón cái váo ngưc mình, gật đầu
xác nhận: “Ngộ. Lương Hữu Thế”.
Chỉ chờ có vậy, tên “đại ca” nhào tới xòe bàn tay dùng thế Cầm Nã Thủ chộp
vào mặt tôi một cú vô cùng ác liệt. Người bị dính đòn này không mù mắt cũng tan
nát mặt mày, tê liệt tứ chi không tử vong cũng bất tỉnh. Né tránh cú Trảo pháp
sắc bén đó tôi biết tên này đích thực có nghề. Chộp hụt cú đầu tên đại ca biết
tôi không phài tay vứa, hắn vội bước lùi ba bước xuống tấn thủ thế. Đã lâu rồi
tôi không dụng võ, nay có tên xì thẩu Chợ Lớn đánh thức nó dậy. Thuở thiếu thời
tôi được một ông thầy võ lang thang ngoài Bình Định vô dạy tôi vài chiêu thức
phòng thân. Về sau đi lính ở Nha Kỹ Thuật tôi học thêm nhiều môn phái khác,
nhất là phái võ Taekwando, chuyên tấn công địch thủ. Tuy nhiên lần này gặp kình
địch tôi đâm ra thận trọng hơn.
Đoạn tôi thích nhất là sự thành thật của ông Lương Hữu Thế. Thành thật là
một trong những bài học về đức tính mà người lính Việt Nam Cộng Hòa được trau
dồi trong thời kỳ huấn nhục ở quân trường. Dù quần nhau dữ dội nhưng ông Thế
không giấu chuyện ông thường bị dồn vào thế hạ phong. Lương Hữu Thế với hỗn
danh “Thế chém” thuở giang hồ, “Thế độc” thời ở lính, không phải lúc nào cũng
là siêu nhân đánh đâu thắng đó. Gặp địch thủ cao tay hơn Lương Hữu Thế có phần
yếu thế. Ông kể:
Họ Mã rõ ràng là tay giang hồ hiếu chiến. Bị tôi đấm tét môi tóe máu, ngã
xuống đất Mã Tèn vẫn bình thản bám chặt chân trái xuống đất lầy, chân phải giơ
lên sẵn sàng trả đòn nếu tôi ập xuống. Gặp tay lợi hại tôi vẫn đứng yên chờ y
nhỏm dậy. Quệt máu ứa trên mép chùi vào quần, Mã Tèn lại đi vài đường quyền rồi
lao vào tôi. Y dùng hư chiêu bên trái, nhưng thực chiêu lại ở bên phải, xoè năm
ngón tay Cầm Nã Thủ cứng như thép nguội chộp vào yết hầu tôi. Tôi ngả người ra
sau né tránh nhưng không tránh được móng vuốt bén nhọn chụp xuống bả vai tôi
cào rách toạc ống tay áo kéo theo một lằn dài xước thịt nhòe máu. Thấy tôi loạng
choạng giựt lùi, họ Mã không bỏ lỡ cơ hội, dùng thế liên hoàn cước phóng lên đá
vào bụng tôi té ngửa, tưởng nằm luôn song vì ý chí quyết đấu, vì danh dự tôi
vùng dậy.
Lạ một điều là ngoài những tiếng hầm hè, đấu đá nhau kịch liệt giữa hai đối
thủ, tuyệt nhiên bọn đàn em đứng ngoài đều kín tiếng. Hình như “Mã đại ca” dặn
trước không cho chúng reo hò cổ võ ầm ĩ, gây náo động dễ bị Công An, phường đội
tới vây bắt. (Bạn đọc đều biết Mã Tèn lẫn Lương Hữu Thế, cả hai ông đều đang
sống ngoài vòng pháp luật).
Tuy cánh tay bị thương, họ Lương vẫn bình tĩnh đối phó tình huống bằng cách
đổi cách đánh. Ông viết:
Xưa nay Lương Hữu Thế tôi không quen biểu diễn đòn phép hoa mỹ lòe thiên hạ,
tôi đánh là xáp vô đánh. Lấn này tôi dùng cước pháp, một nghệ thuật đặc thù rút
từ võ cổ truyền Việt Nam do võ sư Ba Nhọn, ông thầy võ lang thang truyền thụ.
(Tôi ngờ rằng ông họ Lương này chơi đòn chính trị: Giao Chỉ triệt Tàu phù).
Thấy tôi thi triển cước pháp, Mã Tèn có vẻ dè dặt hơn. Nhưng bổn tính hiếu
thắng y gầm ghè xông tới. Bất thần Mã Tèn phục xuống vận nội công định chụp hai
chân tôi hất lên, nhưng… Thay vì lùi lại tôi phóng lên song phi vào mặt để hở
của Mã Tèn “bốp, bốp” khiến y bật ngửa. Hoảng hốt “Mã đại ca” lồm cồm bò dậy,
loạng choạng giựt lùi ra xa. Để kết thúc trận đấu tôi lao tới gần địch thủ,
nhanh nhẹn chúi xuống chấm hai tay trên mặt đất làm điểm tựa tôi tung người lên
lia cả hai ngọn cước “hốt xác” vào ngực Mã Tèn. “Hự! lên một tiếng, Mã Tèn gập
người xuống ôm ngực, miệng hộc ra từng búng máu. Tôi trụ hình, định thần nhìn
đám đàn em của Mã đại ca mới thấy chúng đứng chết trân tại trận.
Nôn nả lật qua trang hồi ký kế tiếp để xem ông Lương Hữu Thế xử trí ra sao
sau trận đánh kết thúc. Ông sẽ đi đâu, về đâu hay làm gì để tồn tại trong cuộc
sống vô cùng nghiệt ngã này, nhưng tôi chợt khựng lại. Tôi nhận ra bản copy
thiếu mất trang 12, 13, 14 và 15. Coi lại các trang đầu tôi thấy rõ ràng ông
Thế đã cẩn thận đánh số thứ tự ở dưới góc phải mỗi trang giấy. Vì vậy tôi ngờ
rằng trên bốn trang thất thoát này, hẳn ông Lương Hữu Thế đã viết ra trường hợp
nào ông và người tình Huỳnh Thị Ngọc Trảng gặp lại nhau, và làm thế nào Ngọc
Trảng đưa được ông Thế về nhà, giấu ông trên căn gác xếp suốt nửa năm trời mà
không bị phát giác. Về cuộc sống mới trên căn gác nhỏ, ông Thế kể:
Khi tôi đã an trú trên gác đâu vào đó, cũng như tìm được chỗ ẩn núp an toàn
trên máng xối, nếu đêm hôm bị Công An xét nhà, Ngọc Trảng mới cho biết: “Em và
mạ em ngủ trên ni, anh nờ. Nhưng ít khi mạ về lắm. Ví lo quán xuyến vườn lan và
nông trại rau quả trên Đà Lạt nên hàng tháng mạ chỉ gởi tiền về nuôi tụi em, vì
rứa chỉ có em ngủ trên ni thôi, anh nờ”.
Tuy nhiên, để tránh bị mấy đứa em ở dưới nhà phát giác có “kẻ lạ” trên gác,
ngày cũng như đêm chúng tôi tránh đi lại để giảm thiểu tiếng động. Không được
cựa mình mạnh, thở mạnh, tránh ho hen, tránh nói chuyện, chỉ ra dấu, khi cần
mới bút đàm. Người con gái Huế tánh tình vốn dịu dàng, đôn hậu, nhưng một khi
liều lĩnh thì không ai bằng. Trong đôi mắt đẹp mà buồn vời vợi của Ngọc Trảng,
ngoài tia nhìn âu yếm, yêu thương tôi hết lòng, thỉnh thoảng lại ánh lên nỗi âu
lo phiền muộn. Sau một tháng trú ẩn trên gác, nhiều lần tôi có ý rời khỏi để
tránh liên lụy tới Ngọc Trảng và gia đình, nhưng tôi được đáp trả bằng những
cái lắc đầu cương quyết từ chối. Lúc đó, lúc phật ý, đôi mắt Ngọc Trảng có lửa,
lửa yêu thương, lửa giận hờn. Đôi mắt đó đẹp quá, đẹp đến hút hồn làm tôi nhiều
khi không dám nhìn vào. Đôi mắt của một cô gái biết yêu người, biết giúp đỡ,
chiều chuộng và thủy chung hết mực, nhưng sao lại buồn đến vậy và yểu mệnh vô
chừng.
Mỗi buổi sáng chở ba đứa em tới trường về Ngọc Trảng đưa tôi xuống dưới nhà
tắm rửa, vệ sinh xong tôi dợt lại vài đường quyền cho giãn gân giãn cốt rồi rút
lên gác ngay. Dù sao quẩn quanh trong cái thế giới u uẩn, chật chội, nhỏ bé của
căn gác này, ông trời vẫn để tôi sống bình yên và Ngọc Trảng đã cho tôi biết
bao hạnh phúc. Tôi như ông Trùm một cõi. Như ông vua không ngai mà Ngọc Trảng
là ái khanh, là phi tần mỹ nữ. Ngày đêm tôi được cung phụng đủ điều. Được chiều
chuộng, yêu thương, được cho tất cả. Rảnh rỗi tôi đọc sách; con mọt sách tưởng
đã chết trong chiến tranh lại thức dậy, lại bò vào sở thích của tôi. Được dịp,
Ngọc Trảng hoan hỉ rinh về một lô sách đủ loại cho tôi đọc. Tôi say sưa đọc cho
qua ngày đoạn tháng. Rồi cái con người súng đạn trong tôi lớ ngớ làm sao lại
mọc ra những thơ và thẩn. Tôi hí hoáy làm thơ và hì hục viết hồi ký. Có điều
chữ nghĩa trong tôi trút xuống trang giấy hễ đọng lại là toàn những mẩu chuyện
buồn. Là vì đời tôi có bao giờ được vui đâu. Có những buổi chiều lén mang cơm
nước lên gác cho tôi, thấy tôi ngồi im như tượng, con mắt trổng lơ nhìn vào đâu
đâu, Ngọc Trảng lại ứa nước mắt. Người tình bé nhỏ của tôi lại sà xuống vỗ về,
an ủi tôi, thủ thỉ bên tai tôi những lời lẽ hiền hòa cố hữu của người con gái
Huế.
“Răng anh cứ buồn hoài rứa?”. Ngọc Trảng thường nói với tôi như vậy. Hay tại
tôi quen tự do bay nhảy, quen lăn lộn trong chốn giang hồ, quen chiến đấu ngoài
mặt trận, vì thời thế, vì vận nước đổi thay đã ảnh hưởng tới bản tính của tôi?
Cũng có thể do tôi lo lắng hay lo xa sợ mất Ngọc Trảng trong một biến cố đột
ngột nào đó. Thực lòng mà nói lúc lao mình trong hòn tên mũi đạn, giành giựt
từng tấc đất, từng sự sống giữa trùng trùng cái chết nên khi trở về thành phố,
không như những người lính khác, tôi thờ ơ với tất cả đàn bà con gái. Thực lòng
tôi, Lương Hữu Thế, đã nghĩ như vậy cho tới ngày tôi gặp Ngọc Trảng trong khuôn
viên Tao Đàn Sài Gòn. Cái đẹp trong sáng đầy sức sống của người con gái ấy đã
đánh thức trái tim ngủ lịm của tôi trong một thời gian thật dài. Và cuộc gặp gỡ
trong vườn Tao Đàn trưa hôm đó hẳn là duyên nghiệp từ kiếp nào đột ngột sút ra
trôi về đây để hai con người chúng tôi tìm thấy một nửa đời nhau. Tôi biết tôi
yêu quí Ngọc Trảng biết chừng nào, vì đó là người phụ nữ đầu tiên của đời tôi.
Cái đẹp vượt bực của Ngọc Trảng là do trời ban đã đành, ngược lại thay vì
kiêu sa, kiêu hãnh, kiêu kỳ gì đó, Ngọc Trảng của tôi lai dịu dàng, đôn hậu,
nhiều khi thật hồn nhiên. Có những buổi trưa, chiều hoặc tối, sau lúc mặn nồng,
Ngọc Trảng ngủ luôn trên mình tôi, tóc xõa xuống đẹp như một thiên thần và hồn
nhiên như một em bé. Những lần như vậy, tôi nhẹ nhàng ôm lấy Ngọc Trảng, nằm im
nghe hơi thở dịu nhẹ và nghe tiếng đập của trái tim người nữ nồng nàn.
Thời gian ẩn náu trên căn gác, chúng tôi sống, hay tôi sống như một Ann
Frank thời đại. Tôi không còn nhớ từ bao giờ tôi đã tách rời khỏi thế giời bên
ngoài, cái thế giới đầy nhiễu nhương nhưng ràng ràng trước mắt, có thể nghe
được, ngửi được, với tới được nhưng tôi không tài nào chạm vào được. Thời đệ
nhị thế chiến, Hòa Lan bị Đức quốc xã chiếm đóng rồi diễn ra cuộc biểu tình bài
người Do Thái, buộc cô bé Ann Frank và gia đình ẩn trốn trong một căn nhà kho ở
Amsterdam. Năm 1944 gia đình cô bé bị phát giác, bị bắt nhốt vào trại tập trung
Auschwitz, Ba Lan, cuối cùng chuyển đến Bergen Belsen, Ann Frank cùng mẹ và chị
gái đã chết ở đó.
oOo
Hồi ký Lương Hữu Thế viết tới đây là hết, mấy trang sau không thấy viết thêm
chữ nào. Nếu đọc lại truyện Gác Xếp của tôi trên facebook, bạn đọc sẽ nhớ ra
đêm định mệnh xẩy ra tại căn nhà chị em Huỳnh Thị Ngọc Trảng trên đường Lương
Hữu Khánh ra sao. Tôi mạn phép sơ lược lại: Cái đêm tịch mịch đó, mẹ của Ngọc
Trảng trên Đà Lạt đột ngột trở về khiến Lương Hữu Thế phải lìa khỏi tổ ấm. Đã
vậy ông Thế còn mắc cái eo. Lúc đu tưởng tuột xuống hẻm ông đụng phải hai tay
phường đội tình nghi ông ăn trộm bắt ông giải vể đồn Công An. Dĩ nhiên Lương
Hữu Thế không phải là kẻ trộm nên ông buộc lòng chống cự lại để chạy thoát
thân. Đúng lấp ló trên ban-công nhìn xuống Ngọc Trảng chứng kiến cảnh đau lòng
trong ràn rụa nước mắt. Chính Ngọc Trảng không ngờ lần bỏ chạy đó lại là lần
cuối cùng ông Thế chạy ra khỏi cuộc đời cô.
Viết tới dòng này hình ảnh gác xếp buồn hiu hắt lại hiện về trong trí nhớ
tôi. Cái gác xếp của 40 năm trước từng là tổ ấm bí mật của đôi uyên ương bạc
phận. Và cây vú sữa trong sân nhà, khi tôi hỏi Bích Thủy nói vẫn còn đó, cũng
là nơi ông Thế từng ngủ qua đêm trên chảng ba. Ngày nay, sau 40 năm dâu bể trôi
qua với biết bao biến thiên trong lịch sử, trong xã hội, trong đời người, mọi
sự đều đã đổi thay đến tận cùng gốc rễ. Qua facebook, Tuyết, em tôi cho biết
hiện nay đường Lương Hữu Khánh vẫn không đổi tên, nhưng căn nhà xưa có cái gác
xếp và cây vú sữa không còn nữa.
Đọc qua tập Hồi Ký Lương Hữu Thế tôi chắc bạn đọc cũng nhận ra cái kết thúc
của hai người thật là cay đắng. Nhưng nghĩ cho cùng, Lương Hữu Thế được ông
trời dành cho một niềm an ủi. Đó là ở cái tuổi 30, một người dãi dầu sương gió
như ông Thế lần đầu tiên mới hiểu thế nào là tình yêu đôi lứa Ngọc Trảng đã ban
cho ông tất cả. Ngọc Trảng, cô gái đất Thần Kinh thông minh, hiền hậu và thủy
chung, là mối tình đầu cũng là mối tình cuối tuyệt vời của ông, Lương Hữu Thế.
Phan Ni Tấn
(*) NÓI VỚI HẠT LỆ, TRẦM HƯƠNG, CHÊNH VÊNH MÔI.
Nói với em là nói với một con tim, được bao bằng mái tóc, được bao bằng mái tóc, ru nồng nàn trong thiên thu.
Nói với em là nói với đàn chim xanh, mùa thu về trong mắt, nhẹ ôm cành hoa trắng, bay trần truồng trong cô đơn.
Nói với em là nói với một cuộc tình, mùa đông se giọt rượu nồng, khỏa thân trên bờ mi cong.
Nói với em là nói với hạt lệ sầu, mù giăng trong tình muộn màng, khổ đau bay về thiên đàng.
Nói với em là nói với hàng cây khô, được ôm người con gái, ngủ mê dòng tóc rối, đêm mạc sầu thay áo xanh.
Nói với em là nói với lòng cô đơn, ngàn năm ngồi im tiếng, ngàn măm ngồi ôm bóng, trong tội tình nghe hơi run.