I
1. Đã qua rồi hơn nửa
thế kỷ, mà tại đây, khi Portland bắt đầu trở lạnh và mây che trắng khung trời,
tôi thấy lòng nhớ Buôn Hô thiết tha.
Và bồi hồi, buồn bã. Như một giấc mơ vợi
xa. Như một kỷ niệm nghìn trùng đã mất cùng với tháng ngày binh lửa, và Xuyến
Nhi. Rời bỏ Cao Nguyên từ cuối 1967, tôi chưa một lần trở lại thăm ngôi làng
quê hẻo lánh ấy, cách Ban Mê Thuột độ 40 km đường chim bay, chìm khuất sau tỉnh
lộ 14 nối liền với Kontum.
Tôi đã hai lần dẫn một
toán Tâm Lý Chiến-Dân Sự Vụ (TLC-DSV) công tác theo Trung đoàn 45, Sư đoàn 23
BB, hành quân tại Buôn Hô. Lần đầu, hỏa lực địch khá mạnh và Tiểu đoàn, mà
chúng tôi được chỉ định tăng phái, đụng độ dữ dội với một lực lượng địch, gồm
du kích và chính quy, có cả Thượng Cộng, khiến toán TLC-DSV không thể làm được
việc gì, nhưng phải bóp cò chiến đấu như lính mặt trận thứ thiệt. Lần thứ hai,
địch đã rút lui, bỏ lại một Buôn Hô yên bình, chúng tôi mới có cơ hội “hành nghề”.
Đó là một thị trấn nhỏ,
dân cư thưa thớt, trên dưới khoảng một trăm nóc gia, cả Kinh lẫn Thượng, được
xây dựng từ thời Pháp thuộc. Người Kinh đa số gốc Quảng Trị, hay Quảng Bình tản
cư lên, sống gần khu vực tỉnh lộ. Người Thượng thuộc bộ tộc Ra-đê, ở sát mé rừng,
phía trong. Tất cả đều làm rẫy hoặc trồng trọt, chủ yếu cà-phê, trà. Từ
xa, trong chiều nắng nhạt, người ta thấy những đồng lúa, nương khoai,
nương sắn nằm im bóng trên sườn đồi, hoặc bên bờ suối, theo hình bậc thang đều
đặn, như một tấm thảm bạt ngàn, xanh ngắt một màu. Làm nhớ quá ca khúc quen thuộc
“Nương Chiều” của Phạm Duy, mà tôi nghe hoài từ nhỏ, qua tiếng hát Thái Thanh:
Chiều ơi! Lúc chiều về rợp bóng nương
khoai
Trâu bò về giục mõ xa xôi, ơi chiều […]
Chiều ơi! Mái nhà sàn thở khói âm u
Cô nàng về để suối tương tư, ơi chiều.
Ở đây, cũng như tại
Pleiku, Kontum, Ban Mê Thuột, quanh năm là mùa thu, khí trời se lạnh, khiến môi
má của những em nhỏ, và của các “cô nàng về để suối tương tư” luôn hồng tươi
trong nắng. Không biết bây giờ, trong chế độ mới, Buôn Hô có thay đổi gì chăng.
Nhưng tôi nghe nói, dân số tại đó đông đúc và cuộc sống xô bồ hơn, cũng như ở tất
cả thôn làng, xã ấp, phố thị Miền Nam khác, bởi những di dân đói khổ từ Miền Bắc
ồ ạt tràn vào chiếm ngụ, lập nghiệp, sau năm 1975.
2. Trong khi tiểu
đoàn BB hành quân tảo thanh và truy lùng địch ven rừng, toán tôi, gồm mười người,
tương đương một tiểu đội trừ, sàn sàn tuổi nhau, được lệnh công tác cho người
Kinh bên ngoài, được cấp xe dodge di chuyển riêng và tự lo liệu an ninh.
Ban ngày, như ở những địa phương khác, giúp
đỡ dân, khám bệnh, phát thuốc, hướng dẫn vệ sinh thường thức, và dĩ nhiên, bắc
loa giải thích và đề cao chính nghĩa quốc gia, chống lại những thủ đoạn tuyên
truyền bịp bợm của VC –những công việc quá quen thuộc đến độ nhàm chán, mà
chính những đơn vị tác chiến yểm trợ cho chúng tôi cũng có vẻ coi thường. Phải
chờ cho đến tháng 4, 1975, cả nước mới thấy thành quả cụ thể của công tác CTCT.
Quả vậy, chỉ mới nghe tin VC sắp đến thôi mà hàng hàng lớp lớp người dân đã hốt
hoảng bỏ chạy tứ tán, từ các quận và tỉnh lỵ xa xôi đến những thành phố lớn và
thủ đô Sài Gòn, và từ Sài Gòn ra biển khơi. Và mặc dù, cho đến bây giờ, đã sống
với VC 44 năm rồi, mà hễ nghe đến tên chúng, ai nấy thất kinh hồn vía, kể cả
người đang ở Mỹ, như một cơn ác mộng hãi hùng. Ban đêm chúng tôi đến nghỉ trong
một trường học, hay dưới hiên một tư gia, sống hòa đồng với dân làng, và các
toán viên thay nhau canh gác.
Đêm ấy, tôi dẫn toán đến
xin tá túc tại một nhà ngói tương đối khang trang nằm giữa một nương sắn. Sau
nhà trồng đủ loại cây ăn trái, quanh năm chín tới, nặng trĩu lá cành. Phía trước
nhà là một vườn hoa nhỏ, đêm về, tỏa ngát hương thơm. Gia chủ là một nông dân
trung niên, tráng kiện, tên Lập, gốc Quảng Trị, vui vẻ tiếp nhận toán chúng
tôi, đối đãi ân cần. Bà vợ người Huế, với một đàn con tám đứa mà hết bảy là con
gái, sanh năm một.. Tất cả đều xinh đẹp. Cô chị cả, tên Xuyến Nhi, tuổi độ đôi
mươi. Thời gian đó, tôi là chuẩn úy trẻ, gốc giáo sư bị động viên, mới tốt nghiệp
Thủ Đức, còn nguyên nét thư sinh, mà lại phục vụ ngành CTCT, nên dễ lọt vào mắt
xanh của các bà có con gái đến tuổi cập kê, vì họ nghĩ đơn giản rằng gả con cho
loại lính này, được bảo đảm về chữ thọ. Sự thật không phải vậy: các toán
TLC-DSV của bốn Tiểu đoàn CTCT, gồm nhiều đại đội, phục vụ tại bốn Quân khu,
thường được tăng phái dài hạn cho, và đặt dưới quyền điều động của, những đơn vị
Bộ Binh từ cấp Trung đoàn, hoặc các binh chủng tác chiến nổi tiếng khác, như Biệt
Động Quân, Nhảy Dù, Thiết Giáp… Tuy không trực tiếp chiến đấu, nhưng khi đụng
trận cũng phải nổ súng như ai, và có người đã bị thương, hoặc nằm xuống vĩnh viễn.
Điều này, tôi đã chứng kiến tận mắt khi còn là sĩ quan thuộc Tiểu đoàn 20 CTCT,
Quân Khu II, Pleiku, biệt phái công tác tại Ban Mê Thuột (Quảng Nhiêu, Buôn Hô,
Quốc lộ 21 Khánh Dương), Lâm Đồng (đồn điền cà-phê), Quảng Đức (Kiến Đức), Phan
Thiết (Thiện Giáo, tức Ma Lâm cũ, Mường Mán, Sông Mao), Bình Định (Phù Mỹ, Phù
Cát, Bồng Sơn, Tam Quan), và Kontum, v..v…
Trở lại Buôn Hô với
gia đình ông bà Lập. Xuyến Nhi có vẻ đẹp thùy mị, mộc mạc của một cô gái sinh ra
và lớn lên tại miền “sơn cước”. Vóc dáng cao thon, khỏe mạnh, và nước da luôn
trắng hồng. Mái tóc buông dài, đen tuyền, đầy hương, như một cô tiên
trong truyện cổ tích. Dễ thương, gọi tất cả chúng tôi bằng “anh”, với giọng
thanh tao, lai Quảng Trị, Huế và Ban Mê Thuột. Và lúc nào cũng lịch sự, lễ
phép, đặc biệt đối với tôi, mà các toán viên, gồm hạ sĩ quan và binh sĩ, trong
số có một Trung sĩ Ra-đê, tên K’Sor –biết chút ít tiếng Pháp, và lơ lớ tiếng Việt–
quen miệng gọi là “ông thầy”, thay cho chữ “xếp”, tức toán trưởng. Phần tôi,
tuy lòng xao xuyến trước vẻ đẹp và sự tử tế của Xuyến Nhi, vẫn cư xử đứng đắn với
nàng, và với mọi người, điều mà tôi dặn tất cả anh em khác trong toán phải làm
theo, dưới danh nghĩa tân khách và cán bộ TLC-DSV, khiến bố mẹ nàng hài lòng,
tin cậy ra mặt. Buổi chiều sau công tác, chúng tôi trở về nhà, tắm rửa, nghỉ
ngơi, kiểm điểm thành quả. Rồi vui đùa với mấy đứa em của Xuyến Nhi. Thỉnh thoảng
mượn bếp để nấu gạo sấy và xào thịt hộp với rau quả trong vườn, mà gia chủ cho
phép hái tự do.
Trong số các em gái,
còn rất nhỏ, của nàng, tôi chú ý đến bé Tơ, rất giống chị cả, độ bảy tuổi, mắt
tròn xoe, vẻ thông minh, đằm tính. Có một vết sẹo nhỏ, dài trên góc trán phải,
vì năm nào, bé đã chạy chơi vấp té sấp xuống sàn xi măng, Xuyến Nhi kể. Tơ thường
bắt tôi bế lên vai, và quấn quýt bên tôi, ngoài hiên nhà, hoặc mỗi lần tôi xuống
bếp. Những khi thấy chiếc dodge của toán trở về, Tơ mừng rỡ chạy ào ra cửa đón,
cùng với các đứa chị, đứa em khác. Anh em toán viên nhảy xuống xe, ôm tất cả
vào lòng, móc túi áo lấy kẹo phát cho từng đứa. Trong khi đó, Xuyến Nhi đứng
bên cửa, kín đáo giơ tay chào mừng, và tôi không quên dành tặng riêng nàng một
nắm kẹo sô-cô-la, mà nàng khen ngon, “lần đầu tiên em mới được ăn đấy”, nàng
nói. Gặp ngày Chúa Nhật, ông bà Lập rủ tôi và vài anh em Công giáo đi lễ cùng với
cả gia đình. Thánh đường là một căn nhà nhỏ ven làng, sát quốc lộ, mái tranh và
vách nứa, đơn sơ, nhưng sạch sẽ, trên nóc dựng một cây thánh giá khá lớn, và
bên trong có những dãy ghế gỗ đóng theo kiểu dã chiến, đủ cho từ sáu chục đến một
trăm người. Linh mục quản nhiệm, biết tiếng Thượng, được tòa Giám Mục Ban Mê
Thuột “tăng phái”, đến từ chiều thứ bảy, để giải tội cho giáo dân –đa số người
Kinh với một số nhỏ người Thượng, như K’Sor của toán tôi.
Thắm thoát đã hết hai
tuần, mãn hạn công tác tại Buôn Hô, chúng tôi phải theo Tiểu đoàn trở về Ban Mê
Thuột, bỏ lại những nông dân chất phác, hiền hòa, tử tế, và gia đình ông bà Lập
với lòng hiếu khách tuyệt vời, đã cho chúng tôi tá túc mười bốn đêm bình yên dưới
mái hiên nhà, giữa khung trời thần tiên, bát ngát hương đồng cỏ nội. Riêng tôi,
bỏ lại ánh mắt của Xuyến Nhi còn quyến luyến trông theo, bàn tay, mà chưa một lần
tôi nắm lấy, buồn rầu vẫy vẫy tiễn đưa, và những lời tình ngọt ngào, mà môi mắt
cùng hiểu và thầm hẹn, sẽ trao cho nhau, khi được gặp lại nhau một ngày nào, một
nơi nào, hay một kiếp nào. Xuyến Nhi ở lại, để người về tương tư, cùng với núi,
rừng, và mây ngàn, từ đó.
3. Trở lại Ban Mê
Thuột, được nghỉ vài hôm, tôi phải đi thêm hai chuyến công tác nữa. Lần đầu,
tại rừng Lâm Đồng, với Tiểu đoàn 22 Biệt Động Quân giải tỏa một đồn điền cà phê
bị VC chiếm. Trận đánh rất ác liệt, và cuối cùng VC phải rút lui, để lại một
kho gạo, hai máy điện và nhiều xác du kích. Không thấy một bóng người dân, toán
tôi thất nghiệp, nhưng phải tiếp tục đi với tiểu đoàn, ban ngày tìm địch, ban
đêm mắc võng ngủ dưới trời sương. Lần thứ hai, tại quận Kiến Đức, tỉnh Quảng Đức,
làm công tác vệ sinh thường thức, như đào giếng và hố tiêu, khám bệnh, phát thuốc
cho đồng bào Thượng B’râu, còn gọi là Thượng Cà Răng Căng Tai.
Sau một tháng, được
nghỉ xả hơi hai tuần tại Ban Mê Thuột, tôi nhận lệnh sẽ dẫn một toán TLC-DSV xuống
Phan Thiết tăng phái dài hạn cho Tiểu đoàn 4 đang hành quân khu vực Thiện Giáo,
thuộc Trung đoàn 44, mà Bộ Chỉ Huy đóng tại Sông Mao. Nghĩa là sẽ xa rời Ban Mê
Thuột khá lâu. Tôi nhớ Xuyến Nhi và quyết định đi Buôn Hô thăm nàng một ngày.
Được đại đội trưởng 203 TLC, Trung úy Nguyễn Văn Mỹ,chấp thuận cho nghỉ và quá
giang đoàn xe tiếp tế vật liệu, lương thực, đạn dược cho một tiểu đoàn BB
đang đóng quân tại đó. Đến nơi, ngang nhà nàng, tôi nhảy xuống, và dặn trưởng
xa Trần Đại Nhơn, Chuẩn úy Quân Nhu, bạn đồng khóa 20, đồng đại đội 5, Thủ Đức,
buổi chiều nhớ đón tôi về thị xã.
Tôi vừa bước vô nhà,
thì cả đám em còn nhỏ của Xuyến Nhi chạy ùa ra tranh nhau ôm tôi, vui mừng, tíu
tít chào hỏi. Tôi mở ba-lô lấy ra, và phân phát, một bịch quà Ban Mê Thuột đầy
kẹo bánh, bút mực và tập vở. Ông Lập và hai đứa em kế đã lớn của nàng, bận cuốc
ngoài rẫy. Bà Lập, thấy tôi, bỗng òa khóc, mếu máo: “Nhi chết rồi, cháu ơi!”
Tôi hoảng kinh, hỏi: “Tại sao vậy bác?”. Bà dẫn tôi vào một phòng bỏ trống, có
một bàn thờ nhỏ, với tấm ảnh bán thân của nàng, tươi cười, xinh đẹp, giữa hai
ngọn đèn cầy, nghi ngút khói hương.. Tôi thắp nhang, lâm râm cầu nguyện.. Sau
đó, bà Lập mới kể: “Cách đây hơn một tháng, một sáng sớm, em nó ra thăm đồng với
một bạn gái. Không có dấu hiệu báo cho biết VC đã về hoạt động tại buôn. Một
lát sau, bọn chúng pháo kích bừa bãi vô ruộng, trúng hai đứa đang đứng trong
cái chòi trú mưa… Xác cả hai nát bấy, cháu ơi, thảm lắm!”
Thế là hết. Tôi không
muốn nghe thêm gì nữa. Mặc dù tình cảm giữa tôi và Xuyến Nhi chưa thắm thiết đủ
cho hồn nát tan, nhưng khi Nhơn ghé nhà đón về Ban Mê Thuột, tôi biết rằng lúc
xa rời Buôn Hô, lần này, là vĩnh viễn sẽ mất kỷ niệm, ông bà Lập, Xuyến Nhi và
các em của nàng. Nghẹn ngào tôi nói lời vĩnh biệt, ôm hôn rất lâu mọi người. Và
thất thểu leo lên xe, mà lòng đau như xé
II
1. Hai mươi ba năm
sau, 1989. Tôi đang theo học và dạy tại University of Oregon, Eugene..
Từ campus, thỉnh thoảng thả bộ ra con phố
nhỏ, gần đó, có nhiều quán ăn, bán đủ món “quốc tế”, giá bình dân, cho sinh
viên, giáo sư và nhân viên đại học. Một buổi trưa, tôi ghé vào một tiệm Tàu,
tính ăn mì hoành thánh, thay cho hamburger kinh niên, ngán đến tận óc. Thực
khách khá đông. Tôi vừa đến cửa, thì cô hầu bàn người Á Đông, đang bưng ra một
tô hủ tiếu. Vì vội, cô vấp phải một ông khách Mỹ mập phì lũ sồng sộc phóng vô,
làm rớt cái tô xuống sàn, nước lèo nóng văng tung toé lên áo tôi và ông Mỹ.
Cô hốt hoảng, quýnh quýu lấy khăn và giấy lau, miệng nói “sorry” lia lịa. Tôi
an ủi cô:
- That’s OK, don’t
worry.
Ngồi vào bàn, một lát
sau, khi cô bưng ra tô mì hoành thánh, tôi thấy có thêu trên túi áo trắng đồng
phục tên Amy H. Tôi vừa ăn vừa bắt chuyện, và hỏi cô: “Are you Chinese?”
Cô lắc đầu: “No, I am Vietnamese”. Tôi bèn nói tiếng Việt:
- Trông cô quen quen,
giống một người tôi biết cách đây đã lâu…
- Thật vậy sao? Em
cũng thấy anh quen quen, nhưng chịu, không nhớ là ai.
- Chuyện dài lắm, sẽ kể
cô nghe sau, khi có dịp, tôi đáp.
Trong gần hai tháng,
tôi còn trở lại tiệm của cô mấy lần nữa để ăn hủ tiếu, và tiện thể, nhìn cô kỹ
hơn. Cho chắc ăn, khỏi lầm người. Phần cô cũng thế, thỉnh thoảng kín đáo liếc
nhìn tôi đăm đăm, tôi đoán, như cố nhớ đã gặp tôi ở đâu rồi. Lần nào thấy tôi
bước vô, cô cũng đon đả chào mời, vẻ vui mừng lộ rõ trên đôi má ửng hồng. Chọn
được một ngày tương đối rảnh, tôi hẹn gặp cô tại một nơi nào đó, và sẽ kể cô
nghe chuyện… đời xưa.
Cô gật đầu, và đề nghị
liền:
- Em nghỉ việc mỗi thứ
hai. Sáu giờ chiều thứ hai tuần sau, mình gặp nhau tại quán Mễ ở đầu phố, được
không anh?
Tôi OK. Buổi chiều dịu
êm, và tiệm vắng khách. Amy đến trước, ngồi chờ, ở một góc khuất. Tôi gọi cho
nàng và cho tôi mỗi người một chén soup và một bánh tortilla. Nàng hỏi:
- Anh tên gì và làm gì
ở Eugene?
Tôi đáp nhanh:
- Nguyễn Kim Quý. Học
và dạy tại Đại Học này đây. Còn Amy, sao lại lạc vào cái xó xỉnh Eugene nhà
quê, khỉ ho cò gáy này?
Nàng cười, để lộ cái
răng khểnh, trông rất duyên dáng:
- Chuyện dài lắm.
Nhưng trước hết, em muốn biết, như anh nói bữa trước, có thật là anh đã gặp em ở
đâu rồi…
Tôi đột ngột hỏi:
- Có khi nào em ở Buôn
Hô?
- Dạ có. Em sinh ra và
lớn lên tại đó.
- Thật sao? Em giống hệt
một người mà anh yêu mến…
- Người ấy tên chi?
- Xuyến Nhi.
Amy mở to mắt, như muốn
xem tôi là người hay ma, và trả lời:
- Xuyến Nhi là chị cả
của em…
Đến lượt tôi sửng sốt:
- Hèn chi. Vậy tên Việt
Nam của em là gì?
- Tơ. Hoàng Thị Thiên
Tơ.
Tôi reo lên, mừng rỡ:
- Hèn chi. Em là đứa
em gái của Xuyến Nhi khi còn bé tí thường đòi anh bế lên lòng và vòi kẹo mỗi lần
anh ghé nhà em ở Buôn Hô...
Tơ gật đầu, có vẻ như
nhớ lại những chuyện cũ, và cười giòn tan. Nàng giống chị như đúc, và cả hai đều
đẹp ngang nhau, khiến lần đầu tiên gặp nàng trong tiệm Tàu, tôi cứ tưởng Thiên
Tơ là bóng ma của Xuyến Nhi hiện về. Bảo nàng cho xem vết sẹo cũ trên trán còn
hay không. Nàng vén một mảng tóc lòa xòa phía thái dương. Đúng nó rồi, tôi cười
bảo, dù bây giờ rất mờ. Đúng em rồi. Nàng nói:
- Anh có trí nhớ tuyệt
vời.
Tôi bắt đầu kể, thật
chậm rãi:
- Hồi năm 1966, nghĩa
là cách đây hai mươi ba năm, anh là chuẩn úy trưởng toán Tâm Lý Chiến theo Tiểu
đoàn Bộ Binh từ Ban Mê Thuột đến Buôn Hô công tác, ngủ ngoài hiên nhà em. Lúc ấy
em chừng độ sáu, bảy tuổi gì đó. Như vậy, bây giờ em...
- Dạ, ba mươi rồi. Còn
một tuần nữa là ba mươi mốt đấy! Nếu còn sống, chị Nhi em giờ cũng đã bốn mươi
ba. Thời gian trôi quá nhanh, anh nhỉ! Mới đó mà.... À, em nhớ ra anh rồi. Gặp
lại anh bây giờ, em nhớ, qua ký ức non nớt của em hồi ấy, hình ảnh rất ngầu, đẹp
trai của anh trong bộ quân phục tác chiến, bạc màu phong sương...
Tôi hỏi:
- Hai bác còn đủ cả
không em?
- Thưa, bố mẹ em mất cả
rồi.
Sau đó, tôi yêu cầu,
và lắng nghe, Tơ kể về cuộc đời nàng tại Mỹ, và nhất là tại Eugene. Mười năm
trước, nàng theo chồng, một Việt kiều, tên Dự, hơn nàng một con giáp, từ Eugene
về nước kiếm vợ, qua sự giới thiệu của bà dì nàng, sang Mỹ tháng tư 1975, học lại
và tìm được việc làm tại Eugene Public Schools. Dự, lúc ấy, có job tốt và có tiền,
làm janitor cho một trường Middle School, do bà dì giới thiệu, và nàng vì ham
đi Mỹ quá, nhắm mắt chấp thuận ngay, chưa kịp tìm hiểu, nói chi yêu thương. Hai
vợ chồng định cư tại Eugene. Tơ tiếp:
- Lúc đầu, em thấy Eugene,
cái xứ khỉ ho cò gáy, như anh nói, không có một bóng người Việt, em nản quá. Xứ
gì mà buồn hiu buồn hắt, không khác chi Buôn Hô của em thời chiến tranh. Rồi em
kiếm được một chân waitress trong tiệm Tàu gần campus trường anh. Riết rồi
quen, an phận, chả muốn di chuyển đi đâu nữa. Ván đã đóng thuyền. Lại thêm, anh
chồng Dự là chúa ghen tuông, toàn là ghen bóng ghen gió không hà, vì mặc cảm xấu
trai, ít học, lúc nào cũng sợ mất em. Những lần bà dì em mở party tại nhà, mời
tụi em và đông bạn bè, đồng nghiệp của dì đến dự, toàn là Mỹ trắng, và nếu em
cười nói, chuyện trò với một chàng trai trẻ nào, là y như rằng tối đó về nhà, bị
anh ta hạch hỏi, mắng mỏ đủ điều. Rồi, như để trả thù, lôi em lên giường bắt
làm tình. Em mệt, từ chối, thì anh ta xé quần áo em, cưỡng hiếp em, theo đúng
nghĩa đen, mặc cho em vẫy vùng, khóc lóc.. Lại đôi lần còn đánh đập em, để tự
gây hứng khởi, điều mà anh ta một lần thú nhận. Em không có con là vì vậy. Em
chán và sợ quá, nhưng phải gắng chịu đựng, vì em không có người quen nào ở đây,
ngoài bà dì ruột...
Nói một hơi xong, Tơ
òa khóc, tôi lấy giấy kleenex, đưa cho nàng. Và lắc đầu, thở dài. Siết chặt tay
nàng, tôi nói:
- Tội nghiệp em quá.
Không ngờ em Thiên Tơ bé bỏng của chị Xuyến Nhi và của anh Kim Quý ngày xưa bây
giờ phải khổ lụy như vầy. Anh có thể làm được gì cho em không?
- Không. Em chỉ xin
anh cho em địa chỉ chỗ anh ở để thỉnh thoảng em đến thăm và chăm sóc anh, thay
cho chị Nhi...
Thực tình, tôi hơi ngần
ngại, một phần vì Tơ đã có chồng, một phần vì tôi đã biết gia đình, bố mẹ và chị
cả nàng, đã bế nàng từ lúc còn mang tã, xem như em út. Nhưng sau hai giây suy
nghĩ, và bắt gặp ánh mắt khẩn khoản, buồn rầu của Tơ, tôi thấy con tim yếu mềm,
cho nàng đến gặp, khi cần, just in case.
2. Một buổi chiều
thứ hai, tôi mãn các lớp học và lớp dạy, về phòng trọ, đang đọc sách thì bỗng
có tiếng gõ cửa nhẹ.
Tôi ra mở, và Thiên Tơ bước vào. Nàng ôm chầm
lấy tôi, mừng mừng tủi tủi. Và tôi cũng ôm hôn nàng, với cảm giác như ôm hôn đứa
em gái út. Tơ nói đùa:
- Anh bế em lên đi
anh, như khi em còn nhỏ ở Buôn Hô.
Tôi cười, làm theo.
Nhưng nàng bây giờ lớn rồi, khá nặng, dĩ nhiên, tôi phải bỏ xuống liền, và than
đau cột sống –hậu quả, tôi kể cho nàng, của lần vượt biên bị bắt ở Cần Giuộc và
bị thằng công an dùng khúc gỗ phang mấy cái vào lưng, đau điếng. Nàng xoa lưng
tôi, nói nhỏ:
- Xin lỗi, em làm anh
đau phải không? Em nhớ anh lắm, em mong gặp lại anh từng giờ. Sau khi ăn với
anh chiều hôm ấy, về nhà, em thấy hồn bỗng đầy ắp những kỷ niệm Buôn Hô êm đềm
trở về, có anh, có chị Xuyến Nhi, mặc dù hồi đó trí óc em còn thơ dại, chưa biết
gì, không nhớ gì nhiều.
Tôi rót nước, lấy bánh
ngọt, mời nàng. Nàng đi quanh phòng xem xét, và đến lò bếp lạnh tanh, hỏi:
- Anh không nấu nướng
gì cả sao?
- Không, buổi trưa, anh
ăn tại trường, buổi tối, đem về một cái hamburger, là xong.
- Tội nghiệp anh! Em lục
trong tủ lạnh, thấy trống trơn, không có gì để nấu cho anh tối nay. Chỉ có vài
cái pizza chưa nướng. Chốc nữa, em nướng để mình cùng ăn nhé anh.
Tôi bèn đề nghị:
- Hay là mình ra tiệm?
- Không, gặp anh, em
vui rồi, không thấy đói. Muốn ở bên anh, cho tận hết từng phút, từng giây.
Tôi không kịp trả lời
thì nàng đã buông mình trên chiếc giường bề bộn gối chăn chưa xếp của tôi. Còn
tôi ngồi trên ghế đối diện. Và hỏi nàng:
- Chồng em có biết em
đến đây?
- Không, em không nói.
Mà anh ta cũng không biết em off mỗi ngày thứ hai.
Lúc ấy, Eugene đang giữa
mùa thu –đúng mùa tựu trường. Trời se lạnh, làm nhớ quá Buôn Hô những ngày xưa
cũ. Bên song cửa sổ, chiều rơi, thật chậm, như muốn níu kéo những tia nắng cuối
ngày đang tàn úa và những giây phút diệu kỳ được gặp lại nhau tình cờ, tựa
trong một giấc chiêm bao diễm ảo, sau bao năm vật đổi sao dời. Và chầm chậm, những
chiếc lá vàng lìa cành, cuộn theo từng cơn gió thoảng qua, trước khi rụng rơi
xuống mặt đất. Chợt thấy lòng mình buồn vui lẫn lộn, một cách vẩn vơ, kỳ lạ.
- Anh ngồi xuống đây với
em. Hãy hôn em. Hãy hôn môi em, nồng nàn như anh cứ tưởng đang hôn chị Xuyến
Nhi. Em yêu anh, thay cho chị, với tình yêu và thân xác của em đây. Anh nói em
giống chị như in cơ mà! Từ ngày sống với Dự, sa vào vũng lầy nhục dục bệnh hoạn,
thô bạo, em thèm những nụ hôn nhẹ như sương chiều lướt qua mặt nước hồ thu, như
sợi tơ trời giăng mắc trên đầu non, êm như thơ, mà nồng cháy yêu đương, thấm xuống
tận xương tủy và hồn mê. Em thèm một lời thì thầm, âu yếm, rót mật vào tai và
ru em vào mộng mị. Em bị bệnh trầm cảm nặng rồi đó anh, sợ việc chăn gối, sợ loại
đàn ông thô lỗ, sợ mỗi cử chỉ vũ phu, cuồng dâm. Tại sao em không được gặp lại
anh sớm hơn, trời hỡi, khi chiến tranh chấm dứt, khi em đến tuổi lớn khôn, khi
chị Nhi không còn nữa, để bây giờ phải ôm một nỗi tiếc nuối ngập tràn, vì lầm lỡ?
Tôi cảm động, nói:
- Lúc em lấy chồng,
anh còn trong trại tù cải tạo mà! Nghe em tâm sự, anh hiểu và thương em lắm.
Nhưng tất cả đã muộn màng, hỡi em. Âu cũng là duyên số, hay đúng hơn, định mệnh,
mà Trời dành cho mỗi người chúng ta. Anh yêu em, và hứa sẽ yêu em trọn cuộc đời
này, bởi vì em là Thiên Tơ, người mà anh luôn xem như cô em gái nhỏ, hồn nhiên,
xinh đẹp, mà anh thường bế những ngày còn Buôn Hô và chiến tranh. Với một tình
yêu trong vắt thủy tinh, không chút bợn nhơ, phàm tục, không pha lẫn với hình
bóng ai, kể cả của chị Nhi em. Nhưng, cũng như cát trên bãi biển, tình yêu đôi
khi có lằn ranh của nó, dù mong manh, mà không ai được phép vượt qua...
Nói thế, tôi vẫn biết
rằng, trên đắm đuối môi hôn, nàng không tin và không muốn có một tình yêu thuần
túy anh em, lý tưởng, phi xác thịt như thế. Khi tôi đưa nàng ra bãi đậu xe của
dãy apartments thì trời tối mịt, dù mới chỉ năm giờ chiều. Ánh đèn đường leo
lét không soi tỏ mặt người. Trời lạnh buốt, khiến Tơ run rẩy, nép sát vào tôi.
Tôi cài áo manteau cho nàng. Tiếng còi từ ga xe lửa gần đó vang lên, thầm nhắc
những cuộc chia ly não nùng, muôn thuở. Nàng nắm tay tôi hồi lâu, rồi khẽ nói:
- Hãy hôn em, một lần
nữa, như đây là lần cuối cùng, vì chúng ta không biết ra sao ngày mai... Cám ơn
anh yêu. Thôi, em về.
3. Một năm sau, tôi
ra trường. Lúc này, vợ chồng Tơ đã ly dị, sau khi nàng bị Dự đánh bầm mặt sau một
trận cãi vã dữ dội, như thường lệ. Một cô hàng xóm Mỹ gọi Cảnh sát. Anh ta
bị còng tay và ngồi tù ba tháng. Bán nhà chia đôi, không con cái, đường ai nấy
đi. Nàng thở phào, thoát nạn, về nhà bà dì ở tạm. Tôi nghe ai kể, ra tù, Dự bỏ
việc, uống rượu suốt ngày, và khi ngà ngà say dọa bắn bỏ “thằng nào dê con vợ
cũ của tao”.
Mặc kệ. Tôi vẫn mời Tơ
đến dự lễ tốt nghiệp, được tổ chức tại khuôn viên đại học, một buổi sáng chan
hòa nắng tươi. Nàng mặc áo dài màu hồng nhạt, quần lụa trắng, vô cùng xinh đẹp,
gợi cảm, lộng lẫy giữa đám quan khách, giáo sư, sinh viên, toàn ngoại quốc. Tôi
choàng vai nàng, sánh bước, hãnh diện giới thiệu “Amy, em gái tôi”.
Tôi được trường
Eastern Washington University mướn dạy. Hai ngày trước khi rời Eugene đi Cheney
nhận nhiệm sở mới, tôi chở cô “em gái” theo hướng Springfield, đến ngồi
tâm sự, vai kề vai, tay trong tay, trên bờ cát trắng phau của một nhánh sông
Willamette, tránh xa những cặp mắt tò mò. Không gian im lắng, đến nỗi chúng tôi
nghe như tiếng thời gian nhỏ từng giọt buồn thánh thót xuống dòng sông, hay
dòng đời. Vài tiếng nhạn lạc đàn vang lên thảm thiết, trong chiều mênh mông, xa
vắng. Cả hai lặng thinh, mắt dõi theo sóng nước cuốn trôi về đâu những đám rong
rêu, những cánh hoa tả tơi, cùng với bao nhiêu mảnh trăng thề vụn vỡ. Và nghe
gió lùa qua vầng tóc rối bời.
Tôi bảo nàng, như an ủi:
- Yêu nhau như thế, có
lẽ đẹp hơn, phải không em? Để anh nói em nghe: đó là một thứ tình yêu tuyệt đối,
phi thường, thánh hóa, chiếu xuống trần gian từ khung trời Chân Thiện Mỹ của
triết gia Platon, thời cổ đại Hy Lạp. Bởi vì hai ta sẽ không bao giờ trở thành
tình nhân, hay vợ chồng, để một ngày có thể lìa bỏ nhau, phản bội nhau, thù hận
nhau.
Nàng tựa đầu vào ngực
tôi, mắt mơ màng nhìn xa xôi, và rơm rớm lệ:
- Anh muốn như vậy thật
sao? Em không nghĩ có một tình yêu chay tịnh, và lãng mạn đến thế, của Platon,
hay của chính anh bịa ra để tự lừa dối mình, và lừa dối cả em nữa. Và nếu có,
em không nghĩ nó đẹp hơn tình yêu thể xác. Em rất thực tế. Đối với em, yêu là
dâng hiến trọn vẹn cho nhau cả thân xác lẫn linh hồn. Thiếu một trong hai yếu tố
đó, con người sẽ biến thành hoặc súc vật, hoặc thiên thần. Em là con người,
đúng nghĩa. Em yêu anh, với sự khát thèm của thân xác và rung động của linh hồn.
Em ao ước được diễm phúc làm vợ anh, dù chỉ một lần thôi, chỉ một giờ thôi, chỉ
một đêm thôi, là em thấy mãn nguyện trọn đời. Và em sẽ không bao giờ quên anh,
nói chi phản bội anh, trong kiếp này, hay kiếp khác…
4. Và đó là lần cuối
cùng tôi gặp Thiên Tơ. Từ Cheney, vì quá bận, tôi hẹn một ngày nào trở lại
Eugenethăm nàng và trường xưa –điều mà tôi cứ hối tiếc mãi. Một năm sau, được
tin nàng bị anh chồng cũ, Dự, trong một cơn say, hay cơn ghen, hay cơn điên, bắn
khi quá giang xe của một thanh niên Mỹ, một thực khách quen của nhà hàng, mà Dự
tưởng lầm là bồ của nàng. Thấy nàng chết tại chỗ, Dự kê súng vào màng tang, bóp
cò, tự sát. Anh thanh niên Mỹ bị thương nặng, nhưng được cứu sống, đã lên đài địa
phương kể lại tấn thảm kịch đầy phi lý này.
Portland, thứ bảy Feb. 9, 2019
Kim
Thanh