Tôi nhận quyết định điều động đi theo đoàn Thông tấn xã Giải phóng (TTXGP)
trở về miền Nam chỉ ba ngày trước khi đoàn lên đường. Một ngày bàn giao công
tác. Một ngày xe com-măng-ca đưa đến các kho hậu cần ở Hà Nội nhận súng đạn,
tăng, võng, màn, thuốc men và đồ hộp. Một ngày nghỉ ở nhà. Không học chính trị,
không tập luyện, không ăn uống bồi dưỡng sức khỏe nhiều tháng trời như tất cả
những người khác.
Ông Hai Luận – trưởng đoàn – đọc quyết định điều động của tôi xong chỉ hỏi
một câu "có người yêu chưa?". Tôi trả lời "chưa". Ổng nói:
"Ở TTXGP con gái đẹp nhiều lắm. Có cô Ba T. Con gái ở cả Hà Nội này không
có đứa nào đẹp bằng đâu".
Đó là lần đầu tiên tôi nghe nói về cô Ba. Dọc đường Trường Sơn đôi lần tôi
nghe đám đàn ông kháo nhau về cô. Hình như ai cũng mong chờ được gặp. Tôi khi
đó có nhiều mối quan tâm khác nên hầu như không để ý.
Vừa vào đến căn cứ TTXGP tối hôm trước thì sáng hôm sau một cán bộ của Ban
An ninh Trung ương Cục đến gặp tôi, giao nhiệm vụ đặc biệt. Suốt cả tháng sau
đó, ban ngày tôi lắp ráp máy thu teletype cho TTXGP, ban đêm ra trảng Cố Vấn để
các cán bộ an ninh huấn luyện nghiệp vụ. Vì quá bận rộn nên tôi không hề nghĩ
ngợi điều gì khác hơn ngoài công việc.
Một hôm đang đi trên đường mòn trong rừng thì tôi gặp một cô gái đi ngược lại.
Tôi đoán ngay là "cô Ba" vì cô ấy đẹp quá. Chỉ tránh đường nhau mà
không hề chào hỏi. Về nhà, tôi hỏi anh Nguyễn Nam Kim. Anh Kim cho tôi biết cô
Ba quê ở Bến Tre, tham gia cách mạng từ năm 17 tuổi, được đưa lên Trung ương
Cục theo một đoàn cán bộ trong đó có đạo diễn điện ảnh Hồng Sến. Trên đường đi
Hồng Sến cưỡng bức cô và cô đã tố cáo việc ấy với lãnh đạo đoàn. Vì thế mà cả
Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam lúc bấy giờ hầu như ai cũng nghe nói về
cô và vụ việc này.
- Cô ấy là điện báo viên ở B8.2, chi ủy viên của Liên chi bộ Đảng, ủy viên
Liên chi Đoàn, hội trưởng Hội Phụ nữ. Ông muốn làm quen không, để tôi giới
thiệu? – Anh Kim hỏi.
- Không. Không bao giờ – Tôi trả lời thành thật và dứt khoát đến mức anh Kim
tỏ vẻ ngạc nhiên. Anh không hỏi thêm, còn tôi thì cũng sẽ chẳng nói ra lý do.
Bởi vì đối với chuyện yêu đương hay lập gia đình thì "nữ đảng viên cộng
sản" là thành phần duy nhất mà tôi không bao giờ nhắm tới.
B8.2 là bộ phận điện báo, cách căn cứ B8.1 của tôi (bộ phận kỹ thuật) khoảng
1km. Phần đông các điện báo viên là nữ. Họ sử dụng máy thu phát vô tuyến điện
15w để liên lạc với Hà Nội và các phân xã phía Nam bằng tín hiệu Morse. Tôi
không có việc gì phải qua căn cứ B8.2 vì mỗi khi máy thu phát nào hư hỏng thì
đã có các công nhân kỹ thuật đi sửa. Vì thế sau lần tình cờ gặp cô Ba trên
đường rừng thì suốt nhiều tháng sau đó tôi không gặp lại cô.
Tối thứ bảy và ngày chủ nhật các cô điện báo viên thường đến nhà anh Nam Kim
và nhà tôi chơi, nấu nướng và đàn hát. Cô Ba không bao giờ tham dự. Tuy nhiên
các cô gái ở TTXGP đều tỏ ra rất kính trọng cô Ba vì cô lớn tuổi hơn, luôn bảo
bọc và đối xử tử tế với họ.
Tôi nghe nói trước đây đã có rất nhiều người muốn chinh phục cô Ba nhưng cô
không chấp nhận ai cả. Trong thời gian tôi ở căn cứ thỉnh thoảng lại nghe đồn
có người này người khác đang đến với cô. Việc gì không biết nhưng nếu có anh
chàng nào đó mà đến thăm cô một hai lần thì y như rằng cả cơ quan đều biết và
đồn thổi lên ngay. Có anh kỹ sư điện tên Chí từ miền Bắc trở về cùng đoàn với
tôi cũng xin làm ứng viên. Anh có chiếc chăn len Trung Quốc mới tinh, đem tặng
cho cô Ba. Cô nhận, rồi cho lại một cô bé nấu bếp. Mùa đông năm ấy rất lạnh. Kỹ
sư Chí lên cơn hen suyễn, co ro trong tấm đắp mỏng manh. Mọi người gọi đùa anh
là "Người thứ 41".
"Người thứ 41" là tên một bộ phim nổi tiếng của Liên-xô (Сорок
первый) được chiếu khắp miền Bắc vào thập niên 60 của thế kỷ trước. Nội dung
phim kể về nữ chiến sĩ Hồng quân Maryutka - đã từng bắn chết 40 người lính Bạch
vệ - nhận lệnh áp giải một sĩ quan Bạch vệ bị bắt về Bộ tham mưu mặt trận bằng
đường biển. Trên biển họ gặp bão, thuyền chìm, một số người bị chết đuối, chỉ
còn Maryutka và chàng Bạch vệ giạt vào một hòn đảo hoang vắng. Trải qua nhiều
hiểm nguy, hai con người ấy nương tựa vào nhau để sống và một tình yêu đẹp giữa
họ nảy nở. Với tình yêu, họ hạnh phúc bên nhau cho đến một ngày, khi một chiếc
thuyền buồm xuất hiện. Chàng trai lao ra mừng rỡ. Khi nhận ra đó là thuyền của
Bạch vệ, cô gái gọi người yêu quay lại nhưng chàng sĩ quan vẫn chạy về phía
đồng đội của mình. Cô chiến sĩ Hồng quân nâng súng lên bắn chết anh ta. Nữ đảng
viên cộng sản đương nhiên phải như vậy.
Một hôm điện đài của cô Ba bị hỏng. Các công nhân kỹ thuật sửa không được
nên tôi đi sửa. Thời đó các điện đài đều được đặt ở các hầm làm việc riêng,
cách xa nhau để tránh bị bom pháo. Hầm làm việc là loại hầm hở, rộng khoảng
10m2, sâu 2m, bên trên có khung nhà thấp lợp lá trung quân để che mưa nắng. Tôi
đến hầm làm việc của cô Ba, đứng trên miệng hầm gọi cô lên rồi mới đi xuống.
Sửa xong tôi giao máy lại cho cô rồi về mà không nói thêm câu nào.
Tối hôm đó tôi dùng máy thu dò tìm tần số làm việc của cô Ba để kiểm tra
chất lượng tín hiệu. Tôi ngạc nhiên vì nhịp gõ ma-nip của cô rất khác lạ. Thật
sự thì mỗi điện báo viên đều có nhịp gõ ma-nip riêng và chỉ có dân trong nghề
mới có thể phân biệt được nhịp ma-nip của nhau. Nhưng trong nhịp ma-nip của cô
Ba hình như có một cái gì đó khiến tôi cảm thấy thật là kỳ lạ mà tôi không sao
hiểu được, cũng không thể diễn tả được. Tôi nghe chừng vài phút thì cô tắt máy
vì đã phát xong bản tin.
Tối hôm sau và vài hôm sau nữa tôi lại dò tìm tần số làm việc của cô và lắng
nghe. Tôi không quan tâm đến chất lượng tín hiệu hay nội dung bản tin cô đang
phát mà chỉ lắng nghe nhịp gõ. Trong rừng đêm hoàn toàn yên lặng, tôi bị cuốn
nhập vào nhịp điệu của những tín hiệu điện báo "tạch", "tè"
khô khan, giống như người đang nghe một bản nhạc không lời. Nhịp điệu ấy dường
như mang trong nó cả một nỗi niềm sâu thẳm, nhưng là nổi niềm gì thì tôi không
thể biết. Dù vậy tôi cũng chỉ nghe vài lần rồi không quan tâm nữa.
Giữa năm 1974 tôi và cô Ba cùng đi trồng mỳ ở rãy Cần Đăng nhưng khi gặp
nhau thì chỉ chào nhau mà không nói chuyện gì. Một lần, lúc giải lao tôi ngồi
nghỉ ở một chỗ vắng, cô Ba đem nước đến mời tôi uống rồi ngồi xuống bên cạnh.
Tôi hỏi: "Này cô Ba, tôi thấy cô cũng lớn tuổi rồi. Nhiều người yêu quý
cô. Sao cô không lập gia đình?". Cô trả lời nhẹ nhàng: "Về chuyện đó
em khó nói lắm". Tôi tưởng cô sẽ bỏ đi nhưng cô vẫn ngồi im lặng bên tôi
cho đến lúc hết giờ giải lao. Tôi cũng không nói thêm câu nào.
Sau ngày 30-4-1975 tâm trạng tôi khá nặng nề. Tôi biết trước những điều gì
sẽ đến với người dân miền Nam. Anh Nam Kim nói với tôi: "Việt cộng tụi
mình vào Sài Gòn giống y như giặc Tác-ta vào Ki-ép". Để khuây khỏa, buổi
chiều sau giờ làm việc tôi thường chạy xe gắn máy lòng vòng trong thành phố
quan sát nơi này nơi khác, nhưng trong lòng vẫn cảm thấy buồn. Tâm trạng ấy
không thể chia sẻ cùng ai. Một hôm định bụng sẽ rủ một anh bạn thân thiết nào
đó – như Nguyễn Tuấn Hải chẳng hạn – cùng đi cho vui. Nhưng ngay khi vừa nghĩ
vậy thì tình cờ gặp cô Ba. Tôi nói: "Sau giờ làm việc hôm nay cô chờ tôi ở
góc đường Hồng Thập Tự và Lê Quý Đôn. Tôi sẽ đưa cô đi tham quan Sài Gòn".
Cô Ba trả lời: "Dạ, để em về thay đồ rồi 5 giờ em tới".
Từ hôm đó cho đến suốt một tuần sau, chiều tối nào tôi cũng đưa cô Ba đi
chơi, gần như khắp cả Sài Gòn. Có cô đi cùng tôi cảm thấy vui. Tôi và cô nói
chuyện nhiều với nhau nhưng không ai đá động đến chuyện tình cảm. Tôi vẫn xưng
hô "cô", "tôi" trong khi cô Ba luôn "anh",
"em" ngọt ngào. Thật sự trong lòng tôi không hề có ý muốn tiến xa
hơn. Và tôi cũng dư sức biết cách không để cho bất cứ ai trong cơ quan biết tôi
và cô Ba đi chơi với nhau, để tránh bị đàm tiếu.
Một hôm tôi đưa cô Ba đến khách sạn Caraven ăn tối. Sau ngày 30 tháng Tư, dù
đã "giải phóng" cả miền Nam và bộ đội tràn ngập khắp các đường phố
Sài Gòn nhưng hầu như không có anh bộ đội hay cán bộ nào dám đặt chân vào khách
sạn sang trọng nhất Sài Gòn này. Đây là khách sạn duy nhất chỉ có người nước
ngoài ở và ra vào. Phần đông trong số họ là phóng viên và hầu hết đều là nhân
viên tình báo.
Đám nhân viên phục vụ rất ngạc nhiên khi thấy chúng tôi bước vào khách sạn.
Tôi hỏi họ phòng ăn. Họ đưa chúng tôi vào thang máy, lên đến tầng trên cùng.
Khi tôi và cô Ba bước vào phòng ăn thì tất cả các thực khách đang ăn đều ngẩng
lên chăm chú nhìn chúng tôi. Tôi chọn bàn ăn bên cạnh cửa sổ rồi chọn trong
thực đơn hai đĩa bò bít-tết và hai ly rượu chát. Khi nhân viên phục vụ đem thức
ăn ra, tôi hướng dẫn cô Ba cách dùng dao, nĩa và khăn ăn. Cô Ba không tỏ vẻ gì
ngạc nhiên, lặng lẽ ăn và cùng tôi ngắm nhìn phong cảnh thành phố bên dưới trải
rộng ra xa tít đến tận chân trời. Cô cũng không hề để ý đến đám thực khách nước
ngoài đang chăm chú nhìn mình.
Lúc ấy tôi đang phấn khích. Tôi buộc miệng nói một câu mà sau này tôi thấy
là ngu không thể tả được: "Cô Ba nhìn xem, cả thành phố này từ nay đã
thuộc về của chúng ta!". Cô Ba đang ngắm nhìn thành phố quay sang nhìn vào
mắt tôi, khẽ lắc đầu nói bằng giọng nhẹ nhàng: "Không. thành phố này không
phải của em. Thành phố này là của những người khác".
Tôi giật mình, ngạc nhiên đến cùng cực. Nếu như vừa rồi trong đám nhân viên
phục vụ đang đứng đằng xa kia có ai đó vì thâm thù Việt cộng đến mức đột ngột
rút súng ngắn dấu trong người ra bắn thẳng về phía chúng tôi thì tôi chắc chắn
sẽ không ngạc nhiên đến vậy. Chắc chắn tôi sẽ phản xạ nhanh như từng phản xạ
với một con heo rừng hung dữ đột ngột lao thẳng vào mình. Nhưng câu nói của cô
Ba làm tôi bàng hoàng và khiến tôi gần như bị tê cứng. "THÀNH PHỐ NÀY
KHÔNG PHẢI CỦA EM, THÀNH PHỐ NÀY LÀ CỦA NHỮNG NGƯỜI KHÁC!". Một nữ đảng
viên cộng sản, một nữ Chi ủy viên cộng sản đang ngồi trước mặt tôi – lại có thể
nói ra câu nói này sao?
- Ăn đi anh. Em mới ăn món này lần đầu – Cô Ba mỉm cười.
Tôi lặng thinh, cố gắng ăn xong cho nhanh, trả tiền và "bo" cho
nhân viên phục vụ như một cái máy, rồi cùng cô Ba ra về. Đêm hôm đó tôi trằn
trọc không sao ngủ được. Với câu nói của cô Ba, bức tường "đảng viên cộng
sản" chắn ngang giữa cô và tôi hoàn toàn sụp đổ. Nhưng tôi vẫn tỉnh táo để
biết rằng mình đừng bao giờ dại dột bước qua đống sụp đổ ấy để tiến tới, bởi vì
nếu bước qua đó thì cả đời mình sẽ phải luôn đối phó với một thế lực đáng sợ đã
có sẵn lối vào tận gia đình của mình.
Hôm sau tôi không hẹn đi chơi với cô Ba nữa. Vài ngày sau cô Ba cũng rời cơ
quan, vào học trường "Bổ túc Công Nông" ở Thủ Đức. Tôi không chỉ
không gặp lại cô mà cố tình không hỏi thăm ai về cô. Về sau tôi tình cờ nghe
nói cô chuyển công tác sang Quốc doanh đánh cá Chiến thắng, rồi sau đó lập gia
đình với một người cũng ở cùng TTXGP trước đây.
Một lần khi đang rà tìm đài phát thanh nước ngoài trên băng tần sóng ngắn
của máy thu thanh dân dụng, tôi bất chợt bắt gặp lại các tín hiệu Morse của cô
Ba. Vẫn nhịp gõ mang nỗi niềm kỳ lạ ấy, một nỗi niềm mà tôi luôn rất muốn hiểu
nhưng không bao giờ có thể hiểu. Rồi một ngày kia làn sóng điện ấy tắt. Trong
không gian điện tử không còn một nhịp gõ nào giống như vậy nữa. Và rồi cuối
cùng thì trong cả không gian mênh mông kia cũng chẳng còn lấy một tín hiệu
Morse nào. Thời của những tín hiệu Morse ấy đã vĩnh viễn qua rồi.
Khoảng mười năm sau, một hôm anh Lâm Quang Thu đến nhà tôi chơi, cho tôi
biết cô Ba bị ung thư giai đoạn cuối, nặng lắm, bệnh viện đã trả về.. Tôi hỏi
địa chỉ rồi lập tức đến thăm cô. Khi tôi đến cô đang nằm trên giường, cố gắng
gượng ngồi dậy nhưng không nổi. Cô tiều tụy kinh khủng. Tôi kéo ghế ngồi bên
giường cô, không dám hỏi nhiều vì cô đang rất đau đớn. Tôi ngồi im, lòng tràn
ngập nỗi xót thương. Bất chợt cô Ba nói khe khẽ: "Hồi đó..." rồi
ngừng lại vì đau. Tôi vội vàng ngăn: "Cô đừng nói gì, ráng nghỉ ngơi tĩnh
dưỡng cho mau khỏi bệnh". Cô Ba im lặng nhìn vào mắt tôi hồi lâu. Rồi cô
nói nhẹ như một làn gió thoảng: "Em cám ơn anh".
Hôm sau cô mất.
*
Cho đến hôm nay tôi không bao giờ quên câu nói của cô Ba: "Thành phố này
không phải của em. Thành phố này là của những người khác".
Từ lâu tôi luôn nhớ lại câu nói ấy. Nhớ lại mỗi khi làm việc với lãnh đạo
Thành phố về các vấn đề liên quan đến sự phát triển của thành phố. Nhớ lại mỗi khi
cùng với họ tiệc tùng ở Caraven hoặc ở các khách sạn sang trọng khác với các
quan chức nước ngoài. Nhớ lại mỗi khi tham gia xây dựng "Kế hoạch 5 năm
phát triển thành phố" hoặc khi tham gia xây dựng "Chiến lược dài hạn
phát triển Thành phố". Nhớ lại khi thiết kế "Chương trình đào tạo 300
Tiến sĩ, Thạc sĩ trẻ" cho Thành Ủy. Nhớ lại mỗi khi thành phố có bất kỳ sự
kiện quan trọng nào.
Tôi luôn nhớ vì cô Ba nói đúng. Thành phố này KHÔNG PHẢI CỦA CÔ BA. Thành
phố này và cả đất nước này cũng KHÔNG PHẢI CỦA TÔI. Thành phố này, đất nước này
là CỦA NHỮNG NGƯỜI KHÁC.
Càng ngày càng thấy cô Ba nói đúng. Đất nước này, thành phố này là của những
kẻ trong chiến tranh không dám ra trận. Đất nước này, thành phố này là của
những kẻ cơ hội sau chiến tranh chen nhau tiến thân bằng con đường
"Đảng", "Đoàn". Đất nước này, thành phố này là của những
"con phe", những "soái ca" xã hội chủ nghĩa. Đất nước này,
thành phố này là của những kẻ cướp bóc và lừa dối. Đất nước này, thành phố này
là của những kẻ ngu độn ban phát bằng cấp cho nhau. Đất nước này, thành phố này
là của những tên lưu manh sẵn sàng đấm đá những người bất đồng chính kiến… Đất
nước này, thành phố này là của Nguyễn Thị Kim Ngân, Tôn Nữ Thị Ninh, Nguyễn Thị
Kim Tiến… Đất nước này, thành phố này là của Trọng "lú", Quang
"lùn", Hùng "trọc", Bùi Hiền… Đất nước này, thành phố này
không phải của những người như chúng tôi.
*
"Không có gì thật sự là của mình" là một quan điểm quan trọng của
Phật học. Nhưng đó lại là chuyện khác. Với những vị thật sự tu hành thì những
chuyện tôi kể ra ở đây chẳng có giá trị gì cả. Nhưng với tôi, cuộc đời của cô
Ba, nhịp gõ ma-nip của cô, câu nói của cô… là những kỷ niệm mà tôi không bao
giờ quên, dù chúng đã trôi xa lắm rồi, chìm sâu trong quá khứ.
Tôi viết về cô như một việc không thể không làm. Tôi không muốn viết thành
một tác phẩm có chủ đề và bố cục hoàn hảo. Tôi chỉ muốn viết đúng sự thật về
một góc nhỏ thân phận của một con người.
Tôi cầu mong mọi điều tốt đẹp cho cô Ba.
Dzũng Trần