Câu chuyện này tôi muốn viết đã lâu, nhưng không hiểu sao cứ đắn đo, vì nó
có vẻ cá nhân quá. Viết ra, mọi người có thể hiểu lầm là muốn tự mình ca tụng
mình. Hôm nay, viết lại để trả một món nợ mang nặng trong lòng. Mục đích của
bài viết này chỉ để ghi lại tấm thảm kịch của những người sống cùng thời với
tôi, cùng là nạn nhân của cuộc chiến Việt Nam thế kỷ 20 và cùng đau đớn hứng
chịu những hậu quả của nó. Chiến tranh đổ xuống những thường dân không trông
mong gì hơn là được sống một cuộc sống an bình. Tóm lại, đây là một truyện
thực, người thực ngoài đời.
Tôi hành nghề y khoa đã hơn năm chục năm nên dĩ nhiên có rất nhiều người y tá
đã giúp tôi trong khoảng thời gian dài này, y tá Việt có, y tá ngoại quốc có,
nam có, nữ có, già có, mà trẻ có, nhưng trong số những người này, duy nhất chỉ
có một người mà tôi gắn bó nhiều nhất, chia sẻ nhiều nhất những kỷ niệm vui
buốn. Đã trên 40 năm kể từ ngày chúng tôi gặp nhau. Khi ấy, tôi mới ra trường
và bước chân vào quân đội. Trong cuộc đời nhà binh của tôi, tôi chỉ phục vụ
trong duy nhất một đơn vị. Đó là quân y viện Phan Thanh Giản tại thành phố Cần
Thơ. Tôi ở đây gần 10 năm, chỉ vào U Minh trong những tháng năm tù tội
1975-1977 và năm sau cùng bị đưa vào tỉnh Vị Thanh dậy học (trung học Y Tế Hậu
Giang) trước khi vượt biên nên có thể nói, với tôi, vùng 4 và nền văn minh sông
nước, tôi rành sáu câu.
Cuộc đời, nói theo Phạm Duy, lạnh lùng trôi theo dòng nước mắt, nên từ một
trai trẻ chưa tới 25 tuổi, thoáng một chớp mắt đã trở thành một ông y sỹ hồi
hưu già ngồi ở Montréal viết những hàng chữ này, rất hâm mộ khi nghe người bạn
nối khố Nguyễn Thanh Bình than rằng: Cuộc đời sao chỉ giống như một giấc mơ
thôi. Nguyễn Thanh Bình cũng vừa rửa tay gác ống nghe như tôi. Trong số bạn bè,
có lẽ chúng tôi là một trong những người gắn bó với nghề nghiệp lâu hơn cả. Về
hưu không có gì làm, thời gian trở thành trống vắng khi người ta quen làm việc
mỗi ngày, lúc nào cũng túi bụi với những việc cần giải quyết. Nay bỗng nhiên
không còn gì để tính toán nữa, nên hụt hẫng trong những ngày đầu, không biết
làm gì cho hết ngày giờ. Khi ấy, những kỷ niệm hiện về, với những ân hận, những
hối tiếc và những câu hỏi: Sao hồi đó mình lại làm như vậy? Sao hồi đó mình
không làm như vậy?
Những ngày đầu tiên trong cuộc đời y sỹ của tôi là một trại bệnh khoảng 80
bệnh nhân nằm chen chúc với nhau, một vài khi 2 người một giuờng khi quá nhiều
bệnh nhân. Giúp việc, có một ông thượng sỹ già và 4, 5 người y tá trẻ. Từ một
sinh viên miệng còn hơi sữa, tôi rất mắc cỡ khi thượng sỹ Hiền luôn miệng hỏi
mỗi buổi sáng trước khi tôi bắt đầu đi khám bệnh, có ông và các y tá khác đi
theo, giống như hồi tôi thực tập tại trường y khoa:
– Thầy uống cà phê không, để trò pha.
Ông ta đáng tuổi cha tôi nhưng ông có thói quen nói như thế với các đồng
nghiệp của tôi, không sao sửa được và sau đó, nghe mãi thành quen, tôi cũng
không phản đối gì nữa. Thượng sỹ Hiền sống rất tội nghiệp với đồng lương ít ỏi
và một bầy con. Ít năm sau, trước khi đất nước rơi vào tay kẻ thù, đứa con trai
trưởng của ông cũng nối nghiệp cha và cũng trở thành y tá trong quân đội miền
Nam. Sau này, khi mất nước và đi tù CS trở về, tôi nghe người ta nói ông kiếm
ăn bằng việc vá xe tại đâu đó trên một góc phố của Cần Thơ nhưng không gặp lại
ông. Cả thầy, cả trò đều túng quẫn khi vận nước đổi thay.
Trong quân y viện (QYV), giúp việc cho tôi ngoài thượng sỹ Hiền còn có những
người y tá trẻ hơn trong đó phải kể đến anh Đến. Sau khi tôi đi học tập trở về,
Đến có tìm đến tôi và bóng gió nói là có thể giúp tôi vượt biên nhưng lúc đó,
tôi rất sợ, không tin ai, biết đâu CS lừa mình, sai lầm và quá tin người có khi
mang họa, nên tôi không dám nhận lời ngay, chỉ ỡm ờ nói để suy nghĩ lại. Nay y
tá Đến đã sang được Úc và nghe đâu làm ăn khá giả, và thành công bên xứ người.
Về các nữ quân nhân, có hai cô đều mang lon trung sỹ là các cô Hường và Thiện,
Miên lai. Hai cô này uống rượu rất giỏi. Sau 1975, khi ấy tôi còn ở Cần Thơ,
hai cô có đến nhà, mua cá, tôm, rượu trắng. Ba thầy trò uống với nhau một bữa
đã đời rồi từ biệt nhau, đời ai nấy lo sau cơn quốc biến. Từ đó đến nay, tôi
không được biết tin tức về các cô.
Những năm ấy, Cục Quân Y cho phép các y sỹ mở thêm phòng mạch bên ngoài để
kiếm thêm tiền và đồng thời cũng để trợ giúp ngành Y tế tỉnh Cần Thơ đang thiếu
y sỹ. Các bác sỹ làm việc tại phòng mạch rất sớm về buổi sáng, sau đó vào QYV
làm việc. Buổi chiều, sau việc công, lại trở về phòng mạch lo khám cho bệnh
nhân tư của mình. Khi bận trực, tùy ý thay đổi giờ khám bệnh tư nhưng công vụ
là quan trọng. Tóm lại, nếu hoàn thành tốt đẹp bổn phận của mình trong QYV, thì
không ai quở trách ai. Vì những lý do đó, đời sống người y sỹ có thể nói là
sung sướng.
Khi mới xuống QYV, tôi một thân một mình, không chịu một gánh nặng về gia
đình nào, tôi không nghĩ đến việc mở phòng mạch để kiếm tiền. Tôi chỉ làm việc
trong QYV, ở trại sỹ quan độc thân không tốn tiền, ăn cơm tháng không bao
nhiêu, còn lại là cà- phê, ăn nhậu, đá gà, thảnh thơi thơ túi rượu bầu. Có điều
chiến tranh lan tràn, và nhiều ngày thương binh chở về QYV sau mỗi trận đánh
khiến mình không sao có thể thờ ơ với cuộc chiến. Nhân khi Cục Chiến Tranh
Chính Trị mở khóa căn bản về Chiến Tranh Chính Trị (CTCT) tại Đà Lạt, tôi xin
với anh chỉ huy trưởng, bác sỹ HNT, một đàn anh rất khả kính và thương đàn em,
được tham dự khoá này, đặt tên là Khoá 7 căn bản CTCT. Anh Tùng chấp nhận.
Tôi lên Đà Lạt và vào ở trường CTCT. Tôi là người y sỹ độc nhất vào thời
điểm đó quan tâm đến vấn đề CTCT, về những Lý Thuyết Duy Tâm, Duy Vật, về Karl
Marx, về Lenine, về Engels, về Hengel… nghĩa là về những vấn đề không liên quan
gì đến y khoa hết. Trường đại học CTCT nằm đối diện với trường trung học Bùi
Thị Xuân của Đà Lạt. Những ngày học tập tại đây đã để lại trong lòng tôi những
kỷ niệm khó quên về Đà Lạt, về Đồi Cù, về Hồ Than Thở, về những nàng kiều nữ mà
thời cuộc đưa đẩy, đa số đều trở thành ý trung nhân của các chàng trai hùng, vì
ở Đà Lạt, còn có quân trường Võ Bị Quốc Gia danh tiếng mà vài năm trước, tôi đã
trải qua giai đoạn quân sự gian khổ trong nhiều tháng trời. Chính nhờ các quân
trường này mà tôi, vốn chỉ là một thư sinh, yêu mến đời quân nhân và sự kỷ kuật
của quân đội.
Sau khoá 7 CTCT, tôi trở lại QYV, và được bổ nhiệm làm trưởng khối CTCT của
QYV, phụ tá cho tôi là anh Nguyễn Văn G., trước có theo học dược khoa, nay trở
thành một sỹ quan hành chánh quân y. Anh G. sau tình cờ gặp lại tại Montréal.
Anh làm cho một nhà thương cho người già, Hopital Chinois, nay chắc cũng về hưu
rồi. Như vậy tôi kiêm nhiệm 2 nhiệm vụ, coi trại bệnh nhưng cũng phụ trách mọi
việc về CTCT, đón tiếp các phái đoàn nghệ sỹ, ca sỹ xuống trình diễn giúp vui,
ủy lạo thương bệnh binh, trong đó có các người nổi danh như Vân Hùng, Kim Xuyên
(hay Kim Tuyến?), Tú Trinh, v.v… tổ chức các lớp học đào tạo y tá cho quân đội,
người ta gọi là lớp CC1. Nói cho ngay, mọi việc do anh G. lo phần lớn. Công
việc chánh của tôi vẫn là điều trị.
Sau khi ổn định rồi, và thấy quen việc, tôi nghĩ tới việc làm thêm ngoài
giờ. Lúc bấy giờ, Cần Thơ đã đủ các phòng mạch của các đồng nghiệp dân y cũng
như quân y rồi, rất khó chen chân, tôi xuống Trà Nóc thuê một căn nhà làm phòng
mạch. Muốn tới Trà Nóc, từ Cần Thơ phải đi về hướng Bình Thủy. Khi tới Bình
Thủy rồi, phải tiếp tục đi nữa, khoảng 10, 15 phút sau nếu chạy xe Honda, sẽ
tới Trà Nóc. Tại Trà Nóc, có phi trường quân đội. Tiếng là như vậy nhưng Trà Nóc
nghèo nàn, trái với Bình Thủy. Dân Trà Nóc phần lớn là gia quyến của các quân
nhân, nghèo nàn, rách rưới, nhiều khi khám bệnh không nỡ lấy tiền, cho nên có
thể nói tôi mất nhiều thời gian và sức lực nhưng chẳng thu lại những kết quả về
tài chánh mà mình mong muốn gì. Sau gần một năm làm việc tại Trà Nóc, tôi không
nhớ trong trường hợp nào, có người giới thiệu cho tôi một người y tá kỳ cựu tại
Bình Thuỷ, nơi trù phú hơn nhiều. Người y tá tôi muốn nhắc ở đây là anh Đinh
Công Nhã.
Bình Thủy chỉ là một quận lỵ thuộc ngoại ô Cần Thơ, trên con đường từ Cần
Thơ đến Long Xuyên. Lúc bấy giờ tại Bình Thủy, người dân khi có bệnh ít khi đi
khám bác sỹ. Họ tin cậy vào hai người mang danh y tá chích dạo nhưng không biết
có bằng cấp thực thụ hay không. Hai người y tá đó là Ba Mãnh và Hai Nhã. Hai
Nhã chính là người nói trong bài viết này. Trong hai người y tá đó, Ba Mãnh có
nhiều thân chủ hơn Hai Nhã, có lẽ vì gia đình anh kỳ cựu ở đây, hay lý do chính
là anh ta là Việt Cộng nằm vùng. Sau 1975, người ta mới biết là Ba Mãnh là cán
bộ Việt Cộng, lúc đó quá muộn rồi.
Hai Nhã, tên trên giấy tờ là Đinh Công Nhã khi đó chưa tới 40 tuổi nhưng đã
có vợ và hai con, một đứa gần 10 tuổi tên Đinh Công Giao và một đứa khoảng 4
hay 5 tuổi tên Lộc, mà anh ta gọi là Lộc xinh, có lẽ vì cháu trông rất xinh.
Việc bất hạnh là Lộc bị chứng tê liệt của trẻ em nên không đi đứng được. Suốt
ngày tôi thấy Lộc lê lết trên nền đất, dùng hai tay chống để di chuyển. Hai Nhã
không phải dân Bình Thuỷ cố cựu. Ông nội anh từ ngoài miền Trung lưu lạc vào trong
Nam và làm nghề thuốc Bắc, thuốc Nam gì đó nên tính đến anh, mới được 2 đời.
Anh ta ngoài việc làm y tá kiếm ăn, rất nghệ sỹ, chơi đàn ghi ta, hát những bài
ca mà chúng ta quen gọi là nhạc vàng. Hai Nhã rất tức tối vì không có nhiều
thân chủ bằng Ba Mãnh nên từ khi được biết tôi, anh mời tôi về Bình Thủy mở
phòng mạch, anh sẽ làm y tá cho tôi khi tôi khám bệnh. Anh ta tìm thuê cho tôi
một căn nhà tại chợ cá Bình Thủy và lo đủ mọi chuyện, tôi không phải mất công,
mất sức gì. Làm với tôi, Hai Nhã có được lợi thế là chỉ phải làm độ 2 giờ buổi
sáng và 2 giờ buổi chiều, khi tôi khám bệnh, ngoài ra anh đánh đàn, nhậu nhẹt.
Có được Hai Nhã, tôi khỏi phải tìm thân chủ vì họ biết anh từ trước, nay lại có
tôi thì họ càng tin tưởng hơn. Tóm lại, một cuộc hợp tác win-win cho hai chúng
tôi. Hai Nhã có bệnh lao từ nhiều năm về trước, nay đã lành nhưng khi chụp hình
phổi, hình quang tuyến đầy những vết nám.
Mùa Hè đỏ lửa 1972, chiến sự lan tràn. Những trận đánh trên chiến trường
Miền Trung làm hao hụt quân số trầm trọng. Chính quyền Miền Nam lúc đó tăng
tuổi quân dịch nên dù đã gần 40, Hai Nhã vẫn còn ở trong tuổi bị trình diện
nhập ngũ. Anh lo lắng hỏi tôi là anh có phải đi lính hay không. Vì đã biết
trước là với hình phổi của anh, dù anh có tình nguyện, anh vẫn bị quân đội từ
chối. Tôi cười nói với anh:
– Anh thì lo gì, anh thuộc thành phần lính chê. Cứ trình diện đi, người ta
sẽ cho về.
Nghe lời tôi, anh trình diện nhập ngũ và được đưa về Trung tâm 4 Tuyển Mộ
Nhập Ngũ. Vào thời điểm này, trung tâm đầy nghẹt người được tập trung về đây để
làm hồ sơ, phân loại, ai bị bệnh sẽ được đưa ra hội đồng Miễn Dịch, ai đủ sức
khoẻ sẽ được đưa ra các quân trường. Các tân binh vì chật chội đông người, lại
lo lắng vì lệnh động viên, nên ai nấy trông bèo nhèo thấy thảm. Vệ sinh và ẩm thực
lại thiếu thốn, ở trong trung tâm, dĩ nhiên rất khổ. Hai Nhã nói với tôi:
– Ông có bảo lãnh cho tôi về nhà trước khi ra hội đồng Miễn Dịch hay không?
Việc bảo lãnh để anh ra khỏi Trung tâm Miễn Dịch đối với tôi không khó. Tôi
làm tại QYV nên những sỹ quan tại đây đều biết tôi, kể cả ông trung tá Chỉ huy
trưởng Trung tâm. Tôi lại quen thân với nhiều đồng nghiệp làm y sỹ bên đó. Vấn
đề là tôi không muốn nhờ vả. Nhờ họ chuyện này, họ sẽ nhờ lại chuyện khác, lúc
đó khó ăn khó nói, nhất là tôi có chân trong các hội đồng y khoa, hội đồng miễn
dịch. Tôi nói với Hai Nhã:
– Anh chịu khó ở trong ít ngày, thế nào cũng được về mà.
Cái mà tôi không ngờ được là vì những điều kiện vệ sinh không được tốt,
Trung tâm 4 Nhập Ngũ năm đó xẩy ra nạn nhiễm trùng do méningocoques hay cầu
trùng đau màng óc. Bệnh này nếu tập trung tại màng óc thì còn hy vọng nhưng nếu
lan ra tổng quát, gọi là septicémie à méningicoques thì chết chắc. Khi đó tôi
đang làm tại trại Bệnh Nặng và chịu trách nhiệm điều trị những bệnh nhân này.
Tôi làm việc túi bụi với sự cố vấn tích cực của một sỹ quan quân y Mỹ cố vấn.
Anh này đem về cho tôi những tài liệu y khoa mới nhất và can thiệp để phòng thí
nghiệm một bệnh viện quân y Mỹ chịu làm cho chúng tôi những thử nghiệm mà phía
Việt Nam chưa làm được. Tôi chọc vào tủy sống và lấy ra những nước tủy sống, có
khi đục như nước vo gạo trong đó đầy những con vi trùng. May mà tôi không bị
lây vì hồi đó, điếc không sợ súng, bác sỹ, y tá, y công không đeo khẩu trang,
không thay áo choàng, không có găng tay như ở bên này mỗi khi có cơn dịch. Tôi
nhận thấy nếu các bệnh nhân chuyển đến tôi, thân thể đầy những vết tím bầm
(purpuras), thì họ đã bị septicemie, và họ sẽ chết rất mau sau đó, cho dù chúng
tôi cố gắng đến thế nào. Công việc làm tôi quên rằng người y tá cánh tay mặt
của tôi đang nằm tại nơi xẩy ra bệnh dịch.
Hôm đó tôi trực. Vào hồi tám hay chín giờ buổi tối, xe Hồng Thập Tự của
Trung tâm 4 chở sang QYV một số các tân binh bị bệnh. Tôi ra nhận bịnh. Hỡi ơi,
trong số các người này, có Hai Nhã. Tôi chạy vội đến anh, vạch áo ra xem, thất
kinh khi thấy đầy những vết purpuras. Anh Nhã cũng nhận ra tôi và còn tỉnh táo.
Tôi còn nhớ câu sau cùng anh nói:
– Găp bác sỹ ‘mình’, sống rồi.
Bác sỹ ‘mình’ là tiếng ưu ái anh dùng để gọi tôi. Ý của anh là tôi sẽ cứu
anh thoát chết trong khi trong đầu tôi chỉ là tiếng than:
– Thôi rồi, mình hại anh ấy rồi! Bây giờ đã quá trễ, làm sao cứu được anh
ta.
Quả thực, anh mất khi trời gần sáng.
Cái chết của Hai Nhã là một cú sốc nặng cho tôi. Lúc nào, khi nhớ lại chuyện
này, tôi cũng bị lương tâm cắn rứt. Đã nhiều lần tôi tự an ủi mình, là không
phải tôi gây ra chiến tranh, không phải tôi ban hành luật động viên và về việc
vệ sinh, việc phòng ngưà bệnh tật thì hoàn toàn do bên Trung tâm 4 Tuyển Mộ
Nhập Ngũ. Tuy vậy, câu hỏi tại sao tôi không lãnh anh ra ngoài khi trình diện
vẫn dằn vạt tôi là đã quá do dự, đã quá e dè, đã quá nghĩ đến tai tiếng của cá
nhân mình mà bỏ rơi anh, ngay cả khi anh cần tôi nhất!
Hai Nhã chết, Tôi có đến đưa đám. Sau khi người ta chôn cất anh, tôi nói với
vợ anh:
– Tôi rất ân hận. Chị cho tôi biết tôi có thể làm gì để giúp chị.
Vợ Nhã nói với tôi:
– Bác sỹ có thể giúp tôi nuôi cháu Giao được không.
Tôi đem Đinh Công Giao, đứa con côi cút của anh về ở với tôi. Mọi người ngạc
nhiên không hiểu tại sao tôi lại làm thế nhưng tôi thấy không cần giải thích gì
hết. Đó là thời gian những năm đầu của thập niên 70, khi tôi ở trong một căn
nhà tại Lộ 20. Giao tuy nhỏ tuổi, vẫn có thể nấu cơm, giặt quần áo, quét dọn
nhà cửa. Sống với tôi, Giao được sung sướng hơn, ngược lại, tôi dậy cho Giao
biết chích thuốc, và nhận biết các bệnh thông thường. Những năm cuối trước khi
mất nước, Giao theo tôi ra phòng mạch, làm những việc mà ngày trước cha nó làm.
Vận nước nổi trôi, năm 1975, mất nước. Tôi còn ở tại Cần Thơ và chờ đợi xem
người ta sẽ đối xử với mình ra sao.
Người cán bộ CS tiếp thu QYV tên Tám Thiện. Lúc đấy mới lòi ra là trong QYV
có người nội tuyến. Anh ta là một nhân viên phòng quân lương, rất lù đù, không
ai để ý đến. Anh này nói với chúng tôi: Các anh bị nhiễm độc quá nhiều vì bọn
thực dân Mỹ. Cách Mạng sẽ khoan hồng cho các anh Học Tập Cải Tạo coi như giúp
các anh trở lại làm người lương thiện. Nghe mà ứa gan. Trong khi chờ đợi, tôi
vẫn làm việc tại trại bệnh nhưng các bệnh nhân đã bị đuổi ra ngoài hết rồi, còn
việc gì để làm.
Tôi về nhà nói với Giao:
– Thể nào tôi cũng không còn được ở đây lâu nữa nhưng trước khi tôi đi, cháu
mang giấy bút ra đây.
Giao nghe lời. Tôi viết trên tờ giấy trắng những dòng chữ này:
“Tôi, bác sỹ Trần Mộng Lâm, chứng nhận đã huấn luyện và đào tạo Đinh Công
Giao thành một người y tá. Đinh Công Giao có sự hiểu biết và có khả năng hành
nghề y tá một cách an toàn cho người bệnh với những chứng bệnh thông thường.”
Viết xong, tôi đưa cho Giao và dặn nó khi cần đưa ra như một văn bằng. Sau
này, khi tôi đi cải tạo trở về, Giao có đến thăm tôi và cho biết nhờ vào cái
giấy chứng nhận thổ tả tôi viết, Giao kiếm được một chỗ làm trong tổ Y Tế của
Bình Thủy và có việc làm. Tôi dặn Giao sau này đừng đến tìm tôi nữa, lịch sử đã
sang trang, tôi không muốn cái dĩ vãng ngụy quân của tôi sau này sẽ di hại đến
đời cháu. Điều an ủi tôi là, một phần nào, tôi đã trả nợ cho Đinh Công Nhã tuy
tôi chẳng có một trách nhiệm trực tiếp nào về cái chết của anh. Bi kịch của
Đinh Công Nhã chỉ là một phần rất nhỏ trong cái bi kịch lớn của toàn thể Miền
Nam.
Sau khi đi học tập cải tạo về, năm 1978 tôi xuống thuyền và đi khỏi cái phần
đất đã để lại cho tôi những kỷ niệm không thể nào quên. Tại Canada, tôi làm lại
cuộc đời và may mắn được làm việc lại trong lãnh vực quen thuộc: y khoa. Phụ giúp
với tôi có rất nhiều người y tá khác nữa, da trắng, da màu, nhưng không có ai
liên lạc mật thiết như người y tá của tôi, một thời nào khi tôi còn trẻ tại
Bình Thủy Cần Thơ. Những đứa con lớn lên tại Montréal hoàn toàn không biết gì
đến dĩ vãng của bố. Chúng cũng có những người y tá khác giúp chúng làm việc.
Nhìn những hình ảnh chúng và những y tá quây quần chung quanh trong facebook,
tôi thấy lại tôi của những ngày xưa thân ái, nhưng đó lại là những chuyện khác,
của một thời xưa xa vắng lắm rồi. Tôi không muốn các con tôi biết nhiều về
những câu chuyện đau thương này. Khơi lại chuyện xưa, nào có ích gì, chỉ làm
phức tạp thêm cuộc sống, vốn đã phức tạp lắm rồi. Tôi muốn các con tôi, như là
cô gái con của Doctor Zhivago trong cuốn phim cùng tên, lao vào đời sống mới
của chúng, làm những việc chúng muốn, và giữ được sự lạc quan, yêu đời mà chúng
may mắn có được trong một mảnh đất không hề biết đến chiến tranh nhờ vào những
cá nhân không mang tham vọng trở thành cha già của dân tộc mình như tên Hồ Chí
Minh của Việt Nam… Hồ Chí Minh, tên không bao giờ đáng nhớ tới, nói tới.
Chiến tranh Việt Nam sau cùng nghĩ lại cũng chỉ là một tấn bi hài kịch mà
đoạn kết chỉ là một mối đe doạ bị mất nước, bị tiêu diệt của một dân tộc tự coi
mình là con Rồng, cháu Tiên, nhưng khờ khạo đem kẻ thù vào nhà. Âu cũng là định
mệnh.
Mây bay theo gió, gió cuốn mây đi, thời gian như một dòng sông, nước chảy
không bao giờ ngừng, mới đó mà đã mấy chục năm. Tết năm nay là cái Tết thứ 40
của tôi tại Montréal. Tất cả rồi sẽ mờ đi, sẽ biến mất, nhưng hình ảnh của Hai
Nhã vẫn còn mãi trong trí nhớ của tôi, hình ảnh của một người yêu đời, với cây
đàn ghi ta trong tay, và những buổi ăn nhậu của chúng tôi, cùng những người dân
Bình Thủy khác, rượu nếp than, những con gà nòi trong trường gà… tóm lại, với
Miền Tây, không biết bây giờ ra sao.
Tết Montréal lạnh, rất lạnh, khác hẳn ngày xưa, khi tôi còn trẻ, với những
cái Tết Tây Đô, muôn đời khó quên.
Trần Mộng Lâm