Trí nhớ của tôi thường bội bạc. Hoặc
thiên vị. Trong cuộc sống, có biết bao nhiêu sự kiện đã ghi sâu vào
ký ức của tôi. Và cũng vô số sự kiện khác trôi qua đời tôi như nước
trôi đầu vịt, không để lại dấu vết gì. Lại có những chi tiết
tôi cho là đáng nhớ, chẳng hạn, khi đã khôn lớn, lần đầu tiên cầm vô
– lăng lái chiếc xe hơi, nhưng tôi không thể nào nhớ được đấy là xe
hiệu gì, đi đâu, lúc nào, đi với ai, với mục đích gì. Trong khi đó,
ký ức về người đàn bà thành phố lỡ bước vào một nơi rừng rú lại
thường trở lại với tôi rất rõ nét.
Chiều nay, một chiều cuối năm, ngồi
một mình bên tách trà quên uống đã nguội lạnh, tôi lẩn thẩn ôn lại
những ngày qua, và hình ảnh người đàn bà ấy lại nổi bật kéo theo
nhiều chuỗi hồi ức khác tưởng đâu đã hoàn toàn bị quên lãng.
Chuyện xẩy ra cách đây hơn nửa thế
kỷ.
Tôi thích núi rừng. Có lẽ từ thuở nhỏ, nhỏ lắm, thời thơ ấu, tôi
sống tại một thành phố rất trẻ, rất hoang sơ, rất rừng rú. Núi
rừng in đậm vào tâm hồn tôi khi còn là một trang giấy trắng. Cây cối,
thác ghềnh. Con thỏ rừng, con chồn, con sóc, con hươu, con nai, con heo
rừng, con gà rừng, con khỉ … sống lẫn lộn với người – người Việt Nam
như tôi, và khá nhiều người thuộc dân tộc thiểu số mà trước kia gọi
là người Thượng. Và nhiều thứ khác nữa chứ. Tiếng suối reo, tiếng
chim kêu vượn hú, tiếng cọp gầm. Và những trận mưa rừng xoá nhoà
trời đất.
Đặc biệt là sương mù. Những buổi
sáng sương mù lấp kín nhà sàn nằm cheo leo trên những vách núi, sườn
đồi, những thung lũng, những mặt hồ, những hố sâu. Có khi sương mù
phủ gần hết những trái đồi thấp, chỉ chừa lại đỉnh. Tưởng như sương
mù là biển cả mênh mông, đỉnh đồi là những hòn cù lao bé nhỏ, lẻ
loi.
Lớn lên, cuộc sống kéo tôi ra khỏi
núi rừng, ở toàn những nơi phồn hoa đô hội. Nhà cửa chật chội, chi
chít; xe cộ rộn ràng, náo động; dân cư ồn ào, chen chúc. Và bụi
bặm. Và mải mê tranh sống. Nhiều lúc tôi tưởng tôi đã đánh mất tôi.
Nhiều khi quên quá khứ. Tôi thử dò xét lòng mình – nếu cuộc sống cho
phép, nghĩa là có công ăn việc làm như nhau, thì thích sống ở đâu
hơn. Rừng núi hay đô thị? Cũng có chút phân vân, tôi chọn núi rừng.
Khi có lệnh động viên, vào trường Võ
Bị Thủ Đức, tôi vẫn thích được đi huấn luyện quân sự tại những bãi
xa, càng xa càng tốt, hơn là quanh quẩn trong hội trường, trong phòng
học, học những môn như chiến tranh tâm lý, chiến tranh chính trị, tháo
gỡ và lắp ráp các loại vũ khí, quân xa, binh thư, vân vân. Đi tới đồi
18 trong vùng quận Thủ Đức, đi Gò Dưa, đi Tân Vạn, hay có lần được đi
di hành xa, cuốc bộ, nón sắt trên đầu, súng trên vai, ba lô nặng trên
lưng, đến tận vùng Dĩ An, Biên Hòa. Mệt nhoài mà thích. Không có
rừng núi, nhưng thay vào đó, cũng được gặp những ngọn đồi thấp,
những con đường lên lên, xuống xuống, những truông, những trảng, và cây
cối tràn lan.
Một hôm, Tết sắp tới, trên bãi tập
bắn súng đại liên, tôi lân la gợi chuyện với một sỹ quan huấn luyện:
“Thưa thiếu úy, ngày mai là ba mươi
Tết rồi. Được nghỉ không, thưa thiếu úy?”
“Không.”
“Mai học ở hội trường hay đi bãi?”
“Đi bãi.”
“Đi bãi nào? Có xa không, thưa thiếu
uý?
Anh ta nhìn tôi, hơi gắt:
“Anh hỏi để làm gì?”
Tôi đang lúng túng tìm câu trả lời
thì vị sỹ quan đó, trẻ tuổi hơn tôi nhiều, lập nghiêm:
“Nhà binh kỷ luật sắt. Có nhiều thứ
cần phải bảo mật. Không được hỏi vớ vẩn.”
Nói xong, anh ta cau mày đứng dậy, quay
người đi nhanh.
15 năm sau.
Tôi đi tù cải tạo. Trong B (trung đội)
của tôi, tôi chơi thân với Chí, một phần do chúng tôi đều có vài kỷ
niệm giống nhau, từng sống tại hai thành phố lân cận vùng cao nguyên
thời thơ ấu – tôi Pleiku, Chí Ban Mê Thuột. Chí là đại úy bộ binh của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, từng phục vụ trong cả bốn Vùng Chiến
Thuật. Những ngày cuối cùng trước khi “tan hàng”, Chí đóng tại Dakto,
Kontum. Đã có gia đình, vợ và ba con, có đứa sắp vào đại học. Qua những
lần đi lao động bên cạnh nhau, chuyện trò thì thầm, tôi được biết như
thế. Chí vui tính, hiếu động, táo tợn, “rắn mặt.”
Chúng tôi không biết B của chúng tôi
thuộc đại đội nào, tiểu đoàn nào, trung đoàn nào. Chỉ biết xa thành
phố, nằm sâu trong vùng núi rừng hoang vắng, mùa hè nóng như thiêu
đốt, mùa đông lạnh thấu xương.
Một hôm, vào giờ nghỉ giải lao, Chí
lân la đến cán bộ quản giáo cười cười làm thân, rồi tò mò hỏi:
“Thưa cán bộ, mai đi lao động khu nào
nhỉ?”
“Anh nói tiếp đi!”
“Và có đi sớm như sáng nay không?”
“Cái gì? Cứ nói tiếp!”
“Thưa, đi đốn cây hay đi cắt tranh?”
Viên quản giáo quay đầu nhìn chằm
chặp, và lặp lại câu nói cũ:
“Nói tiếp!”
Chí lại cười cười:
“Thưa, tôi chỉ muốn biết chừng đó
thôi.”
Viên cán bộ quản giáo quắc mắt, nói
qua kẽ răng:
“Này, này, ý đồ gì vậy?”
Chí chột dạ, gượng cười:
“Thưa … thưa … tôi không có ý đồ gì
cả. Chẳng qua, chẳng qua …”
Nói chưa hết câu, Chí nghiêng mình
chào rồi vội đi nhanh về phía chúng tôi.
Sau khi đi lao động về, trước giờ ăn
tối, có người đến đưa Chí lên Khung trình diện, mang theo hành lý.
Chúng tôi ngơ ngác. Khung là trụ sở của Trung Đoàn thì phải. Hành lý
rất nhẹ, chỉ một cái bị nhỏ đựng một bộ áo quần tươm tất mang theo
từ hồi trình diện học tập cải tạo, khi có thăm nuôi, thắng bộ đồ
đó lên cho đẹp mặt. Mặt ai? Có lẽ mặt tù cũng như mặt cai tù. Và
một áo cụt ba lỗ, một quần xà lỏn tự khâu lấy bằng vải bao cát.
Có cả một cái chén gò từ miếng tôn cháy sém, một đôi đũa tre tự
chuốt lấy to và dài. Khi trình diện đi tù cải tạo, chúng tôi không
có đủ thông tin, nên không mang theo chén, dĩa, nồi, niêu.
Chúng tôi biết mang theo hành lý có
nghĩa không trở lại với chúng tôi.
Trại tù có một hội trường khá rộng,
mái tranh, nền đất, không có phên, vách. Không có ghế cho tù ngồi.
Chỉ có một cái bàn nhỏ, một cái ghế đẩu dành cho cán bộ khi lên
lớp. Vào mùa mưa, gió tạt mưa vào, ướt át. Chúng tôi tụm năm tụm ba
chạy quanh tìm chỗ khô ráo.
Ngày nào chúng tôi cũng đi lao động
trừ chủ nhật. Những hôm học các môn lý thuyết, chính trị cũng khỏi
đi lao động ngoài rừng. Thì tới hội trường. Lao động cực nhọc, nhưng
chúng tôi thích hơn đến hội trường nghe “nhồi sọ, tẩy não”.
Có những khu rừng quen vì đã đến
nhiều lần. Nhưng thường đến bằng những lối đi khác nhau. Có nơi đi
thật lâu mới tới. Vì xa? Không hẳn. Một lần đi lâu đến một khu rừng
lạ. Chí, hồi đó đang còn ở tù chung với chúng tôi, trèo lên một cây
cao định hái bụi hoa phong lan theo như lời hắn khai, bị lính bảo vệ
bắt gặp, nổ súng chỉ thiên. Hắn hoảng hốt tụt xuống, rồi bị biệt
giam nửa tháng vì phạm nội quy. Có lẽ vì đã phạm cái tội đó cho
nên về sau Chí “lèng èng” hỏi chuyện đi khu này khu nọ nên bị dồn hai
tội làm một, bị chuyển đi trại khác.
Trở lại thời kỳ hắn chưa bị chuyển
trại. Hết bị biệt giam, hắn đổi tính, gắt gỏng. Ít chuyện trò với
mọi người. Không còn những lối đùa giỡn náo nhiệt, vui nhộn. Tệ hại
hơn nữa, hắn nhìn mọi người bằng con mắt ngờ vực. Trừ tôi ra. Tôi tự
hỏi, hắn nghi ngờ chuyện gì? Hay là Khung đã tung hoả mù, gieo những
mầm nghi kỵ trong đám tù vốn không quen biết nhau từ nhiều nơi dồn
về? Đã thế, đám tù này cũng không được sống chung với nhau lâu ngày.
Chúng tôi chưa kịp tìm hiểu nhau thì “Cách mạng” lại “xóc bài”.
Chúng tôi lại bị phân rẽ ra mỗi người đi một ngả.
Một hôm, khi chỉ còn hắn và tôi đứng
cạnh nhau, hắn thì thầm:
“Tụi nó có nhiều trò quỷ quái lắm.
Dẫn tụi mình bị đi quanh quẩn đến hụt hơi mới tới nơi. Nhưng thật ra,
rất gần. Trèo lên cây cao thấy ngay. Tao lấy cớ trèo cây hái phong lan,
thực ra để quan sát quanh vùng.”
“Quan sát làm gì vậy?” tôi hỏi.
Chí nhớn nhác nhìn quanh, hạ giọng:
“Để trốn trại. Cậu và tui nhé. Có
hai đứa, giúp nhau, mới có hy vọng thoát.”
Nó bị chuyển trại chăng? Đó là do
chúng tôi bàn tán, suy luận. “Cách Mạng” không bao giờ cho chúng tôi
một thông tin nào về nó, hoặc về bất cứ vấn đề nào khác trừ những
gì liên quan tới “Học tập tốt, lao động tốt”. Chúng tôi cũng không
được hỏi han gì cả. Câm. Điếc.
Hay là nó bị thủ tiêu rồi, tôi buồn
rầu ngẫm nghĩ.
Có lần đi thật lâu, chắc là xa thiệt,
tới một khu rừng cây cối cao ngất. Tôi thấy náo nức. Ô, núi cao, rừng
sâu! Chúng tôi lần đầu tiên thấy sóc bay. Ngửa mặt nhìn lên ngọn cây,
thỉnh thoảng thấy vài ba con sóc màu nâu nương theo gió bay là là từ
cành cao của cây này đến cành thấp hơn của cây khác. Không thấy nó
bay ngược lại, từ thấp lên cao. Có lẽ không bay được. Thấy chúng tôi,
vài ba con sóc tò mò đáp xuống đất. Một bạn tù rình bắt được một
con.
“Mày giỏi quá. Nhanh như sóc mà cũng
bị tóm.”
“Nhằm nhò gì. Cá, chim, tao cũng bắt
như chơi.”
Thật thế, anh chàng này, vào mùa mưa,
có dịp đi qua những hố bom B-52 đầy nước, hình tròn, đường kính
khoảng vài mươi mét, mà được quản giáo cho tù xuống tắm, hắn bắt
cá. Những người khác ham bơi, lội, vùng vẫy, kỳ cọ, hắn mò mẫm bơi
quanh ven bờ hố, lấy tay khoét vài cái lỗ sâu độ một gang tay. Anh em
quậy nước bùn lên làm cá cay mắt và sợ, trốn vào mấy cái lỗ đó.
Mươi phút sau, hắn trở lại mò tay vào những cái hang đó bắt được
cá. Bắt chim én càng khỏe hơn. Chỉ cắm vài con ruồi vào một khúc
tre nhỏ xíu như que tăm, ngay cạnh đó đặt một cái thòng lọng. Ngày
xuân con én đưa thoi, thấy ruồi tiện thể bay qua đớp, vướng
vào dây thòng lọng. Phải chi cứ lo việc đưa thoi. Thế là bữa ăn chiều
của nó thấy mà thèm.
“Hôm nay cậu lại có món sóc rô ti,”
một người hỏi.
“Không, con sóc này lông dày êm quá.
Rờ sướng tay. Cậu có coi cuốn phim gì gì đó có cái thằng khờ thích
rờ chuột? Tui là thằng khờ đó, đem về nuôi chớ không ăn. Sóc dễ làm
thân lắm. Mới đó nó đã biết giỡn với tui, thấy chưa. Đấy, đấy, coi
cặp mắt ngây thơ long lanh kia kìa. Coi hai bàn tay nó chắp lại kia
kìa.”
Hắn lấy dây lạt cột con sóc vào một
gốc cây để rảnh tay đi lao động. Đến giờ nghỉ trưa ăn xong cơm
nguội hoặc củ khoai mì mang theo, hắn quay lại thăm con sóc. Một bầy
kiến lửa bu vào đầy mắt, đầy miệng con sóc. Chết cứng queo.
Tại một khu rừng khác, cũng đi khá
lâu mới tới, chắc cũng xa thiệt, chúng tôi chặt mây. Lần đầu tiên tôi
thấy dây mây. Nó là một loại dây rừng có những lóng dài, có mắt
mọc ra thành vài ba nhánh nhỏ. Vỏ bọc bên ngoài dây mây đầy gai nhọn.
Mây bò chằng chịt quanh những cành, những cây cao. Chặt mây, rút mây ra
khỏi cây to thế nào cũng bị gai đâm rách áo, sướt tay, lủng chân.
Cũng trong cánh rừng này, sắp tập
họp trước khi trở về trại, tôi chợt thấy một cây lạ, khá cao, cành
lá xanh tươi, một mình đứng lẫn trong nhiều cây cổ thụ khác. Thân cây
có một lớp vỏ màu bạc bao kín. Tôi chăm chú nhìn, rồi lấy dao chặt
nhẹ mấy nhát vào gốc cây. Thích cái cây đó chặt chơi “làm kỷ niệm”,
chứ không định phá hoại “có hệ thống”, cũng không “có ý đồ” gì
ráo. Vỏ tróc, gỗ bên trong màu vàng tươi thoang thoảng một mùi dễ
chịu. Bụng đói, đói liên miên, đói kinh niên, thấy cái gì có vẻ ăn
được là ăn ngay. Ăn bất cứ con gì còn nhúc nhích, trừ con ruồi và
con muỗi. Nhưng gỗ đâu biết nhúc nhích, cũng nếm thử vài mảnh nhỏ
văng ra xem sao. Thấy thơm và ngọt, tôi gọi mấy người trong toán tới.
Tất cả đều thích thú cho là đã tìm ra một loại cây quý. Biết đâu
quý hiếm hơn cây quế trong rừng. Thì một bạn thấy thế chạy vội đến
la to đừng ăn, đừng ăn, coi chừng ngộ độc chết tươi cả ngay bây giờ.
Chúng tôi chợt tỉnh. Đứa thì cố khạc nhổ, đứa thì đứng lặng người
lắng nghe bụng dạ mình chuyển động ra sao.
Đến bây giờ tôi cũng không rõ đó là
cây gì. Chỉ nhớ là sau đấy, trên đường về lán, chúng tôi, những
người đã nhai những mảnh gỗ vụn đó, đều cảm thấy uể oải, mệt
nhọc, hoa mắt, chân bước lâng lâng, lảo đảo. Nếu không có anh em cho
vịn vào vai để cùng đi, nếu không có chú lính bảo vệ súng cầm tay,
mặt non choẹt cố làm ra vẻ “hình sự”, trông thấy thương hơn là ghét,
chúng tôi đã nằm lăn quay xuống đường mòn. Nhiều hôm sau đó chúng tôi
cũng chưa bình phục hẳn.
Hình ảnh chú lính bảo vệ trở lại
với tôi. Cố làm ra vẻ hắc ám, sắt máu nhưng không che giấu nổi những
nét ngây thơ, chất phát, ngờ nghệch. Đúng là một kịch sỹ bất đắc
dĩ. Anh ta nghĩ gì trong đầu? Là một cá nhân bé nhỏ bị nhồi nặn
trong một chế độ độc tài toàn trị, với bộ máy tuyên truyền khổng
lồ, liệu anh ta, và ngay cả những quản giáo hay những người chuyên
đứng lớp thao thao bất tuyệt về chủ nghĩa này, lý thuyết nọ, có
thể nào suy nghĩ độc lập? Có thể anh ta nghĩ rằng chúng tôi là
những tên Ngụy rất nguy hiểm, những tên Việt gian bán nước, ôm chân đế
quốc, thích ăn tim gan người, uống máu đồng bào, “xơi tái” bào thai
của “chiến sỹ gái”? Cho nên, nếu có “sự cố” bất tường nào dù nhỏ
nhặt xẩy ra, phải dùng bạo lực cách mạng thẳng tay trấn áp?
Chúng tôi đi tù tại Miền Nam, loại tù
không có nhiều “nợ máu với nhân dân”, chắc chắn không nếm mùi đau khổ
bằng những người tù bị đưa ra ngoài Bắc. Nhưng đã ở tù thì kể chi
đến gian khổ, tôi thầm nghĩ. Than van, trách móc chỉ khiến cho cái đau
đau thêm. Hãy quên hết, quên đói, quên thiếu thốn, quên nhọc nhằn. Quên
buồn, quên nhớ. Ý chí nói với tôi như thế. Nhưng tôi có chịu làm theo
hay không? Dường như có, dường như không. Dường như mà thôi, chẳng có
gì rõ ràng.
Liệu tôi có thể quên nếp sống cũ?
Liệu tôi có thể nào đừng nghĩ đến xã hội ngoài kia mà tôi không hề
có được một tin tức chính xác nào. Quản giáo thì nói láo, vợ con
đến thăm thì không dám tiết lộ sự thật vì có cán bộ đứng cạnh nghe
ngóng. Báo chí không có đã đành, đài vô tuyến cũng không được nghe
ngoại trừ thỉnh thoảng “được” bắt buộc nghe đài phe ta.
Đừng nghĩ “khi về” thì sẽ làm sao có
thể chạm trán với xã hội ngoài kia. Mà khi nào là khi về, “Khi
về hỏi liễu Chương Đài”. Đừng nghĩ đến vợ con đang chìm nổi
trong cơn “đại hồng thuỷ”. Đừng nghĩ rằng, trước những thay đổi khủng
khiếp, liệu người vợ chỉ trông cậy vào đồng lương ít ỏi và cố định
của chồng, suốt ngày lo săn sóc việc nhà và nuôi con, nay có biết và
có kịp thay hình đổi dạng, để xông pha vào cuộc đời mới đầy đe doạ.
Liệu có chịu tập tành buôn thúng bán mẹt; bon chen, giành giật; gồng
thuê gánh mướn. Hay là khi vô phương kiếm sống, lại xoay qua làm nghề
không vốn. Vâng, biết đâu, biết đâu. Và đứa con độc nhất sắp đến tuổi
đi học? Liệu nó có được cắp sách đến trường hay là ngày ngày
chạy ra ngoài chợ Cầu Ông Lãnh đá cá lăn dưa, hay là lêu lổng đầu
đường xó chợ, hay là đi bụi đời. Mà nếu may mắn được đi đến trường
thì cái đầu non nớt đó sẽ học những gì? Chắc chắn sẽ có những
bài học mới lạ, kỳ quái, và sẽ không thiếu những môn huấn luyện
cách “lăng mạ, luận tội, lên án” ngụy quân, ngụy quyền trong đó có
cha của nó, chú của nó, họ hàng của nó, láng giềng của nó, đồng
bào của nó. Khi cha nó về, nó sẽ nhìn cha bằng “nửa con mắt”?
Như đã nói trên, tôi tự nhủ đừng nghĩ
ngợi lôi thôi. Càng nghĩ ngợi, càng bế tắc. Và tôi đã thành công. Là
vì những ý nghĩ tối tăm vừa nêu trên, lúc đó, đã nằm sâu dưới cát,
lớp cát dày phủ kín đầu con đà điểu ngoài sa mạc. Vâng, người ta
nói, khi gặp nguy hiểm, con đà điểu chui đầu xuống cát để khỏi phải
thấy gì. Sự thật có phải là thế không? Nhờ đấy, con đà điểu “khôn
ngoan” đã ù lì sống, đã không bị hội chứng tâm lý, chấn động tinh
thần. Bây giờ, nước đã chảy nhiều dưới cầu, lớp cát dày bị gió sa
mạc thổi bạt, hai con mắt con đà điểu mở to quay nhìn quá khứ. Giật
mình.
Tình yêu có từ bé đối với rừng núi
không ngờ lại là điều hay cho tôi. Nhờ tình cảm đó, những chuyến “đi
rừng” lao động dù cực khổ và bị kềm kẹp vẫn mang lại cho tôi vài ba
kỷ niệm khó quên như tôi vừa kể. Nhưng tôi còn muốn kể thêm câu
chuyện dưới đây nữa. Nó khiến tôi mỗi lần nhớ đến là mỗi lần bàng
hoàng thảng thốt như bị dội lên đầu một thau nước lạnh.
Tôi luôn luôn mong được đi rừng xa. Đúng
như mong ước của tôi, một hôm gần Tết ta, sau khi tập họp, quản giáo
cho hay sẽ đi xa, xa nhất từ trước đến giờ. Sẽ được ghé một nơi đặc
biệt. Một người tù bẩm bẩm, Khoan hồng, cách mạng lại khoan hồng.
Tôi nhẩm tính, thế là sắp ăn bốn cái
Tết tù. Người xưa dùng chữ đúng quá, “Ăn Tết”. Vừa đi vừa suy đoán
năm nay ăn Tết ra sao. Chắc sẽ được nghỉ lao động một ngày, mong nó
không rơi vào ngày Chủ Nhật. Và “trên cả tuyệt vời”, có lẽ chúng tôi
sẽ có thịt heo, mỗi năm tù được ăn một lần vào dịp Tết. Mỗi người
cũng sẽ được chia một miếng thịt khiêm tốn to bằng một lóng ngón
tay, gặp miếng có mỡ coi như trúng số. Chắc năm nay cũng thế, B chúng
tôi cũng sẽ bàn bạc sôi nổi, cuối cùng “đạt được sự nhất trí cao”:
gom thịt và cơm lại, cho vào nồi lớn, thêm chút muối và mấy gàu
nước giếng, bắc lên lò nấu cho thật nhừ. Thế là, một nồi cháo thịt
nóng hổi thua gì Cháo Chợ Cũ mà chúng tôi thường nhắc đến khi họp
nhau tán gẫu sau bữa ăn tối mà cứ ngỡ chưa ăn.
Chắc cũng sẽ đấu cờ tướng từ sáng
đến chiều, cho điên cả cái đầu. Nhà vô địch sẽ không được hưởng “vinh
quang”, nghĩa là “bị nghỉ lao động” một ngày. Tên nào thích thể thao,
dù thân thể còn da bọc xương, chắc sẽ được đá banh. Chân không giày,
chia làm hai phe, phe ở trần, phe mặc áo. Nhưng Tết năm nay tôi sẽ không
ghi danh đá banh trên cái sân khủng khiếp đó. Nào đá dăm tai mèo nhọn
hoắt, nào đá cuội lục cục nằm rải rác đạp lên đau méo mặt, nào lỗ
chân trâu gồ ghề, lởm chởm, nào những bụi hoa trinh nữ, tôi thích chữ
bông mắc cở hơn, đầy gai nhọn mọc phục kích khắp sân.
Sau trận đấu tên nào cũng bong móng
chân cái. Nhiều tháng sau móng mới mới chịu lần mò nhú ra thật
chậm, trông đến sốt ruột. Đó là chưa kể cái bụng không cứng kéo theo
cặp giò rất mềm, đá vào trái banh da mà tưởng như đá vào tảng
đá.
Vợ con phải nhịn thèm để dành quà
Tết vào dịp thăm nuôi đầu xuân. Có những gì nào? Mong được một thỏi
đường đen, thèm ngọt quá; một chai nước mắm thiệt, vì ngày ngày chỉ
được ăn loại nước mắm làm bằng nước muối thắng chút nước màu cho
vui mắt; và nhất là cái bánh tét nhân chuối, hay nhân đậu xanh, hay
biết đâu nhân thịt. Thèm thịt quá.
Đầu óc lan man, chân bước đều đều như
máy. Trên nhiều đoạn đường, tôi đi mù lòa theo sức lôi kéo vô hình
của đoàn tù, không để ý đến cái lưng của người đi trước, hay cái vai
của người đi bên cạnh. Chỉ cắm đầu loáng thoáng thấy những bàn chân
sù sì, gót nứt nẻ, mang dép râu, xủi đất, cát, bụi bay vật vờ.
Bỗng nhiều tiếng reo, Ồ con suối, chảy mạnh quá. Tôi bỡ ngỡ
nhìn quanh.
Con suối nhỏ rộng khoảng 10 mét chảy
ngang qua một vùng đất khá bằng phẳng. Bắc ngang qua con suối là một
thân cây còn tươi đường kính hơn một gang tay, còn cả vỏ nguyên vẹn,
chứng tỏ rằng “cây cầu” này ít người qua lại. Bên một bờ suối còn
một gốc cây lẫn trong đám cỏ cao có nhiều vết mới chặt. Có lẽ mấy
ngày trước đây một người nào đó đốn cây này, chặt hết cành, rồi
đẩy thân cây cho nằm ngang qua dòng suối. Thế là có cây cầu. Cành,
lá, có lẽ đã được mang về nhà làm chất đốt.
Nhiều người tù khi qua cầu thấy nước
chảy nhanh, chóng mặt, sợ ngã xuống suối đành phải ngồi bệt xuống,
hai chân choàng qua hai bên thân cây, cái kiểu ngồi trên lưng ngựa, hai
tay chống xuống thân cây nâng người lên, nhích nhích tiến tới từng
chút một. Trông giống trẻ con đùa giỡn. Quản giáo, lính bảo vệ đi
qua cầu một cách dễ dàng như đi trên mặt đất phẳng. Có khi họ còn
trổ tài chạy phon phon. Tôi nghiệm ra rằng đại đa số chúng tôi không
phải là lính chuyên nghiệp, vốn là công chức, tư chức, bị động viên
nhập ngũ chưa được bao lâu thì rã đàn tan nghé. Nay bị ném vào núi
rừng. Vụng về, lọng cọng.
Xa xa, phía ngược dòng suối là rừng
tre ngút ngàn. Từ mô đất cao nhìn xuống, tre xanh ngát, hết lớp này
đến lớp khác, đu đưa trong gió trông như những tấm gấm vóc khổng lồ
lượn sóng. Xuôi theo dòng suối, rừng cây trùng điệp, cây không tên, hay
đúng ra chúng tôi không biết tên, cũng xanh tươi, rậm rạp. Rừng nhiệt
đới muà xuân là thế đó. Hai bên lối mòn ngoằn ngoèo, hoa dại
nhiều màu đã nở rộ. Cỏ dại trên mặt đất cũng trổ hoa, thường là
hoa màu vàng nhỏ như ngọn rau má. Cũng có bướm bay chờn vờn quấn
quýt nhau, đuổi nhau; chuồn chuồn thì bay đứng một chỗ trên không trung
quan sát chúng tôi. Rừng nhiệt đới phải có nhiều loại côn trùng chứ,
tôi ngẫm nghĩ. Chúng đâu cả? Chỉ thấy bươm bướm và chuồn chuồn. Chắc
hẳn côn trùng đang nằm ẩn trong bụi cây, đám cỏ, lòng đất, chờ đêm
xuống bò đi kiếm ăn và thi nhau hoà tấu những khúc nhạc thiên thu.
Chim cũng hiếm, trừ chim én. Khó thấy chúng nó, chốc chốc nghe lảnh
lót tiếng hót. Hay đó không phải là tiếng chim, mà là “tiếng gọi”
của núi rừng. Trên trời cao, mấy cụm mây trắng trôi bồng bềnh. Ở
thành phố ít thấy mây bay.
Khoảnh rừng thưa này khá rộng, chim
én bay lượn nhiều. Một câu thơ trong Kiều, Ngày xuân con
én đưa thoi, đã được nhắc bên trên, lại nhắc lại, vì tôi thấy nó
đẹp, êm, và ấm quá. Tại sao câu thơ ấy đẹp, êm? Khó nói. Nhưng ấm
thì dễ tán láo. Đưa thoi khiến tưởng tượng đến khung cửi với hai bàn
tay nhỏ của cô dệt vải, và từ vải may áo thay cho cái gọi là áo
làm bằng bao cát sù sì, chùm đụp, xiêng xẹo, hở hang, mới mặc ngứa
ngáy chịu hết nổi, lâu ngày quen. Nhưng vẫn nhớ cái áo bằng vải
thiệt như trẻ con mới bỏ bú nhớ bầu sữa.
Tưởng là đã đến nơi, nhưng không.
Chúng tôi chỉ dừng lại chờ những người ngồi lết lết qua cái cầu
độc mộc. Sau khi mọi người qua khỏi cầu, đoàn tù tiếp tục đi.
Đầu óc tôi lại lang thang. Và nhớ.
Lang thang nhớ về quá khứ. Đừng nhé, hãy khoan, hãy đừng nghĩ đến
tương lai. Hãy là con đà điểu ngoài sa mạc. Nhớ chuyện cũ thôi. Nhớ
là liều thuốc xoa dịu, mơn man, làm nhẹ phiền muộn. Là tiếng nói
thủ thỉ, hay đay nghiến; nụ cười hân hoan, hay hờn dỗi; ánh mắt reo
vui, hay trách móc. Là bàn tay quen quen, mai tóc cỏ rối, nụ hôn bâng
khuâng, làn da ấm áp. Là tiếng khóc trẻ thơ trong veo, tiếng tập nói
bi bô vừa chớt vừa ngọng, chiếc giày nhỏ xíu nằm lăn lóc trên gác
nhỏ một hôm tìm thấy. Là tiếng ho hen quát tháo bầy chó vồ sủa của
ông già hàng xóm mỗi khi có khách đến nhà, tiếng rao hàng quà rất
đúng giờ mỗi buổi sáng, tiếng xe xích lô máy bỗng nổ ròn rã khuấy
động rồi xa dần, nhỏ dần, mất hút. Là con phố có hàng cây sao, có
lề đường rộng, khua vang tiếng guốc chen lẫn với tiếng cười khúc
khích mỗi buổi chiều khi học trò con gái “Em tan trường về.”
Là quán cà phê khói thơm ngào ngạt cùng thân hình yểu điệu và mái
tóc đen dài che nửa khuôn mặt rất đẹp của cô chủ, làm nổi bật đôi
mắt mơ màng lơ đãng không bao giờ nhìn thẳng vào một ai. Phải chăng
không nhìn vào người nào chứng tỏ chưa có nơi có chốn, thì những
chàng trai mới lớn tha hồ nuôi hy vọng, ngày ngày đến trồng cây si.
Nhưng không có cái nhớ nào dai dẳng,
tha thiết, và lặp đi lặp lại bằng nhớ tô phở, tô bún bò, tô hủ tíu.
Ngây ngất cả thần hồn vì mùi thơm bốc lên, ấm cả lòng dạ khi bàn
tay nâng niu bên ngoài cái tô no tròn nóng, như trẻ thơ nâng bầu vú mẹ.
Dù thèm đến mấy, cũng sẽ không dám ăn liền. Như tên mọt sách, cầm
cuốn sách mới đã chờ đợi lâu nay, không dám giở ra đọc liền. Âu
yếm nhìn tên tác giả, hân hoan như thấy tác giả gật đầu mỉm cười
đáp lại, nhìn tranh bìa trước, ngắm chữ bìa sau, ướm thử xem nó
nặng bao nhiêu, rồi bàn tay trái cầm gáy cuốn sách, ngón cái tay
phải khẩy nhẹ vào cạnh những trang giấy để nghe mùi giấy mới, mực
mới, chữ nghĩa mới lan toả những đợt sóng từ trường.
Vâng, tôi sẽ không ăn ngay. Trước khi ăn,
như đã nói, tôi hãy thưởng thức bằng khướu giác, xúc giác, rồi mới
lim dim mắt ngắm nó như ngắm bức tranh ấn tượng. Màu đỏ cay của ớt,
màu xanh mát của hành lá, màu đen ròn của tiêu, màu trắng mịn của
bánh phở, con bún, sợi hủ tíu.
Thế còn màu sắc của thịt tái, chín,
nạm, gầu, gân, vè, sách, giò heo, chả lụa, thịt băm, tóp mỡ, nước
lèo? Màu sắc của những thứ đó vượt ra khỏi lãnh vực của ấn tượng.
Tượng trưng chăng? Siêu thực chăng? Thật khó mà diễn tả bằng lời.
Cuối cùng đoàn tù dừng lại hẳn. Chúng
tôi đến khu rừng này lần đầu. Đúng ra đây không phải là khu rừng, mà
là một trảng tranh. Và thật là lạ, tại một góc của cái trảng tranh
xanh tốt và khá rộng này có mấy gánh gánh hàng ăn. Khoai, sắn,
chuối, ổi, bưởi, trái cóc, mấy khúc mía chưa róc vỏ … Và những
loại bánh hấp hoặc nấu chín gói trong lá chuối. Trông ngon lành quá.
Gần Tết rồi, chắc có bánh tét. Tết luôn luôn có bánh tét, tôi muốn
gọi nó là bánh tết.
Không xa nơi chúng tôi tập họp trước
khi phân tán ra làm nhiều toán nhỏ, cuối đám tranh, sau những bụi cây
và lau sậy san sát, thấp thoáng năm ba mái nhà lá. Tôi tưởng như lâu
ngày nay gặp lại quê nhà, thân, quen, ấm áp, dù đang mùa Đông. Thấp
thoáng bóng dáng người dân thường, trông nghèo nàn, lam lũ, nhưng ăn
mặc đâu vào đấy. Đàn ông quần cụt, áo sơ mi rách rưới, vá víu, đàn
bà quần dài đen, áo bà ba cũ kỹ. Không kỳ quặc như chúng tôi – áo
bao cát ba lỗ, một lỗ to cho cái đầu bờm xờm thò ra, hai lỗ nhỏ cho
hai cánh tay xương xẩu có chỗ thoát ly; quần xà lỏn bao cát thì trông
chỉ văn minh hơn chiếc khố; mỗi người may theo mỗi cách, mà vẫn có
mẫu số chung, là méo mó, xộc xệch, hở hang.
A, đây là xã hội loài người, nhưng họ
có phải là Việt Cộng hay không nhỉ? Nghĩa là họ có xem mình như kẻ
thù, như Ngụy, để họ cải tạo phụ đạo? Hay họ chỉ là những người
thường dân, dù sống dưới chế độ nào. Tôi buồn rầu nghĩ tiếp, dưới
chế độ nào đi nữa thì dân vẫn là dân, chính quyền là chính quyền,
đảng là đảng, Việt cộng là Việt cộng. Lẽ nào mọi người đều là
Việt cộng?
Ở mãi trong rừng ngày ngày đối diện
với sắt máu, kềm kẹp, rình rập, đói khát, bệnh tật, nhiều khi mình
cảm thấy mình không phải là con người nữa. Một nhà thơ nói trúng:
Mười năm, mặt xạm soi khe
nước,
Ta hóa thân làm vượn cổ sơ.[1]
Nay thấy loài người, lòng bỗng nao
nao. Và có hàng, có quán. Không chừng có cả chợ. Có lẽ nơi này rất
xa những nơi từ trước tới nay chúng tôi đã đến để được “Vinh Quang” –
“Lao động là vinh quang.” Khẩu hiệu được lặp đi lặp lại này làm tôi
nghĩ đến câu nói “Xúi trẻ ăn cứt gà.” Chúng tôi không còn là trẻ con
nữa, vậy câu nói đó nên được đổi thành “Xúi già ăn cứt vịt” chăng?
Tôi nghĩ bụng vinh quang hay không còn tùy thuộc vào mục đích của cái
lao động ấy chứ. Chẳng hạn ta được cho ăn bánh vẽ làm việc đến kiệt
lực trong khi kẻ khác ngồi không hưởng trọn thành quả của cái lao
động ấy, thì vinh quang cái nỗi nào.
Một người đột nhiên cất cao giọng
“phát biểu linh tinh”: “Hôm nay là ngày cuối năm, mai Tết, ngày vui của
dân tộc. Mừng Xuân Ơn Đảng.”
Một giọng khác bẻ: “Trật. Phải nói:
Ơn Đảng Mừng Xuân. Cho nên Cách Mạng chiếu cố cho chúng ta lao động
tại vùng này để được gần gũi với nhân dân hưởng cái Tết ấm no, độc
lập, thống nhất, tự do, hoà bình.”
Có tiếng xì xào, rì rầm. Hưởng ứng
hay phản đối? Nhưng dù gì thì dù, mọi người vui hẳn lên, cố cắt
thật nhiều tranh, cho mau đạt chỉ tiêu, để còn nhiều thì giờ đi “mua
sắm”. Nghĩa là để có thể ngồi nán lâu hơn giờ nghỉ quy định bên các
hàng ăn, hàng quà tán gẫu. Ai có tiền thì “mua sắm” củ khoai, trái
chuối, trái bắp, ăn Tết; ai không tiền thì ăn Tết bằng mắt.
Tôi chợt liên tưởng cách đây 15 năm trên
những bãi tập quanh vùng Thủ Đức, Chợ Nhỏ. Giờ nghỉ trưa,
chúng tôi la cà đến những cô gái quê xinh xắn nói năng ngọt ngào,
duyên dáng, áo bà ba nhiều màu, và quần trắng, quần đen mỏng “sexy”
làm nổi lên những “đường cong tuyệt mỹ”. Họ ngồi bán những thức ăn,
thức uống. Bán những nụ cười tươi tắn. Nay bên những gánh hàng ăn
lỏng chỏng xác xơ, cũng những cô gái quê còn trẻ lắm nhưng trông lam
lũ quá. Tóc búi tó không chút mượt mà, mặt mày hốc hác không trang
điểm, nước da nám, sạm, áo quần toàn một màu đen bạc thếch vì dãi
dầu mưa nắng. Đi chân đất.
Tôi ngạc nhiên khi thấy dăm ba bạn tù
có tiền đến mua quà. Trong những chuyến thăm nuôi, ngoài “đồ tiếp
tế”, thân nhân của họ lén chuồi một ít tiền. Vợ tôi cũng muốn làm
như thế nhưng tôi từ chối ngay, nghĩ rằng ở tù trong rừng thì tiền
bạc có ích gì. Tôi đâu ngờ rằng có một ngày như hôm nay. Tôi cũng
chưa có ý nghĩ trốn trại, thì phải có chút tiền mang theo phòng
thân.
Tôi càng ngạc nhiên hơn. Lẫn trong nhóm
người nghèo khổ đó, ngồi thu mình đằng sau chiếc rổ bày ra mấy món
thức ăn, là một người đàn bà còn trẻ, trên dưới ba mươi tuổi. Thoáng
trông tôi đã nhận ra ngay cái dáng dấp “lãng mạn tiểu tư sản bóc
lột”. Cô ta như ở một tinh cầu lạ rơi xuống, khác hẳn bọn tù
chúng tôi đã đành, mà cũng không có nét nào giống những cô gái quê
khốn khó. Lâu ngày quen mắt với núi rừng âm u, nay bàng hoàng thấy
hiện lên hình ảnh của ngày xa xưa như trong chuyện cổ tích. Một chút
thân thương và rất nhiều xót xa. Tôi quên cả giữ ý, nhìn trân trối.
Người đàn bà gầy gò, tay chân như
thừa thãi. Mái tóc đã lâu không uốn buông thỏng xuống vai áo màu tím
nhạt, sờn, rách, để lộ làn da xanh xao. Không lạnh sao, mùa đông nơi
rừng núi mà. Đôi mắt to, đen, ngơ ngác, mang một vẻ sợ sệt thường
trực khó hiểu, nổi bật lên trên khuôn mặt không vui, với đôi mày thanh
tú, cái cằm hơi nhọn, chiếc mũi thon. Hai bàn tay gầy ngón dài
thường nắm chặt vào nhau, như để chống cái lạnh, cho thấy trên ngón
tay thứ tư của bàn tay trái chiếc nhẫn vàng nho nhỏ. Thế là đã có
nơi nương tựa? Hay chàng không còn? Hay chàng cũng đang ở tù như chúng
tôi? Biết đâu có thể cùng B với tôi.
Tò mò, hay vì lâu ngày không thấy
người nữ, tôi trố mắt nhìn kỹ hơn. Nhìn hai bàn chân mang dép Nhật
mòn hết gót. Nhìn chiếc quần lãnh đen bạc màu có mấy miếng vá ở
đầu gối. Khi người đàn bà đứng dậy quay người, tôi nhìn miếng vá ở
mông. Và mông. Tôi quên hết mọi cung cách giao tiếp lịch sự tối thiểu.
Tôi thầm nghĩ, trước kia, với chút trang điểm và bớt gầy, có lẽ đấy
là một nhan sắc đáng kể. Và chắc chắn là dân thành phố. Nhưng sao
lại lạc lỏng tới nơi này? Cơn xúc động trong tôi bỗng dưng lóe lên như
đốm than hồng phủ tro bị cơn gió mạnh thổi tạt qua.
Rổ đựng thức ăn cũng gợi trí tò mò
của tôi: một ít mứt gừng gói trong giấy trong, hai chén chè đậu
xanh đánh, một dĩa xôi lạc, trước kia gọi là xôi đậu phụng, và đũa,
muổng. Và một thẻ nhang, một bông cúc vàng gói chung trong một mảnh
giấy báo đặt bên dưới dĩa xôi. Tôi muốn xin mảnh giấy báo mang về
đọc xem có gì trong đó, mà không dám. Chỉ chừng đó. Không có người
nào tới đấy hỏi mua quà. Cũng phải thôi, bọn tù chúng tôi đâu cần
những món ăn xa xỉ như thế.
Vài ba người bán quà ngồi gần đấy
tỏ vẻ khó chịu. Khó chịu vì tôi chăng? Vì cái nhìn rất ngố không
biết che đậy của tôi? Tôi chột dạ, chỉnh đốn lại thái độ. Bỗng họ
lớn tiếng bàn bạc với nhau có lẽ cốt để cho tôi nghe chăng.
Một người nói:
“Không biết nó từ đâu mà tự nhiên nhô
ra. Coi tức cười quá vậy trời.”
“Nó? Nhưng nó nào?” Người thứ nhì
hỏi.
“Thì còn ai nữa. Cái con ranh đó đó.”
A, họ không nhắm vào tôi. Tôi cảm thấy
nhẹ nhõm trong người.
Người thứ nhì nói tiếp:
“Con ranh đó hả? Thì từ Sài Gòn chớ
từ đâu nữa. Lên đây bán đồ cho … cho … mấy anh tù.” Quay nhìn thẳng
vào tôi. “Chắc không phải đâu. Lên làm gái.”
Người thứ nhất lắc đầu, le lưỡi:
“Phải có da có thịt mới có thể làm
gái chớ. Ốm như con khỉ gió thì làm gì được!”
Người kia không đồng ý:
“Ở đó mà không làm gái! Coi cái mặt
mốc kia kìa. Không làm gái thì cái tướng đó làm được gì mà sống.”
Người thứ ba bây giờ mới ra miệng, tỏ
ra biết nhiều và biết điều hơn, nói với hai người kia, nhưng mắt thì
chăm chăm nhìn cô Sài Gòn:
“Tui biết nó. Tui gặp con khùng này
mấy lần rồi. Nó làm gì mặc kệ nó, mình dư hơi đâu mà xía vô. Không
ưa thì đuổi nó đi chỗ khác cho đỡ ngứa con mắt.” Nói xong cười thích
thú.
Cứ sau mỗi câu nói trên, người đàn bà
thành phố, trông như con chó lạc chủ bị một bọn người cầm gậy gộc
dọa đánh, run rẩy co rúm người lại. Con mắt càng ngơ ngác, vẻ mặt
càng hoảng hốt. Như một phản ứng tự nhiên, quên mình là tên tù, tôi
nhảy vào can thiệp. Tôi buột miệng nói mấy câu, ban đầu hùng hồn,
dõng dạc, dần dần yếu xìu:
“Ê, ba chị kia, làm gì vậy? Người ta
cũng …” Xoay nhìn người vừa nói. “À, à chị có biết cô này hả. Thôi,
tội nghiệp, tha cho người ta đi. Tui, tui sẽ… Tui sẽ …”
“Tui sẽ làm gì?”
Tôi ngẩn người, đáp nhanh:
“Tui sẽ cám ơn lắm lắm.”
Họ cố nhịn cười. Người đàn bà thành
phố lấm lét nhìn tôi, ngơ ngác. Tôi đâm ngượng, im bặt. Rồi ngó lãng
ra đằng xa nơi vài ba người tù đang ăn khoai mì, miệng ngốn ngấu ngon
lành, mắt mở thao láo.
Nhưng thật không ngờ, người đàn bà
vừa đòi đuổi cô thành phố quay lại nói với tôi:
“Tui giỡn chơi thôi, anh biết chớ. Tui
có quyền gì mà đuổi người ta. Còn anh muốn mua đồ của nó thì cứ
mua đi. Nói khéo khéo nó sẽ cho ăn chùa, khỏi cần trả tiền, tui bảo
đảm. Con này nó khùng mà. Khùng thì biết gì đâu.” Quay nói với hai
người bạn hàng. “Thôi, tụi mình đi bán chỗ khác nghen. Ngồi đây
nhột.”
Ba người đứng dậy thong thả gánh hàng
quà của mình đi đến nơi anh lính bảo vệ đang ngồi cạnh lùm cây
nhỏ lấy thuốc lá ra vấn.
Không có một khúc cây, một cục gạch,
hay tảng đá gần đó, để ngồi, tôi đứng xớ rớ bắt chuyện:
“Chị bán những thứ gì đó?”
Người đàn bà không trả lời, nhìn chỗ
khác, có vẻ thèn thẹn. Tôi nói thêm:
“Sao toàn là những đồ cúng cả vậy.
Lại có cả thẻ nhang.”
“Kệ tui. Anh đi chỗ khác để cho tui
yên. Đi ngay đi.”
A, cái cô này lạ thật. Mình vừa đứng
về phe cô ta, cô lại đuổi mình đi. Hay là vì mình vô ý nhìn người ta
như muốn “ăn tươi nuốt sống” khiến người ta bực tức? Tự thấy mình có
lỗi, tôi dịu giọng:
“Cô mau quên quá. Không có tui, ba con
nhỏ kia đã xé xác cô rồi. Không chừng tụi nó quay lại đó.”
Cô ta đứng bật người dậy, hoảng hốt,
nói líu lưỡi:
“Thật không … Thật không… Chết, chết,
chết. Làm sao đây?”
Tôi không ngờ cái phản ứng thái quá
đó. Không biết nói gì, nói đại một cách vớ vẩn, buồn cười:
“Chắc họ không quay lại đâu.”
Người đàn bà coi bộ dễ tin:
“Anh nói thiệt hả anh.” Rồi cười lặng
lẽ và cúi xuống lấy một chén chè đưa tôi, miệng lẩm bẩm như nói
một mình:
“Trước cúng sau cấp. Cấp thì ăn. Không
ăn thì bán. Anh ăn không tui bán cho? Ăn xong đi chỗ khác chơi.”
Tôi ngạc nhiên đáp:
“Tui không đói.”
Người đàn bà bỗng đổi thái độ, dịu
giọng:
“Tui cũng không đói như anh. Tui anh
giống nhau. Không ăn thì đem lên đây bán. Người ta bán được tui cũng
bán được. Anh cũng mua được. Ăn xong đi chỗ khác chơi.”
Cô ta lại lơ đãng nhìn quanh. Đột nhiên
cô bước tới gần, nói nhỏ bên tai tôi:
“Nhưng tui không lên đây buôn bán giành
khách của họ đâu, mà họ cứ làm khó, làm dễ tui hoài. Tui sợ
ba cái bà đó lắm.” Hai bàn tay che mặt, vai thun. “Tui đem lên cho ảnh.
Tết năm nay không có gì, tui chỉ đem được chừng đó thôi. Lâu quá mới
đi mà ít đồ quá. Ảnh có giận không hả anh? Anh cứ nói thiệt đi, tui
không ngán đâu.”
Tôi tò mò hỏi:
“Ảnh? ảnh là ai?”
Người đàn bà cau mày:
“Ảnh là ảnh, chớ còn là ai nữa.”
Mắt rưng rưng. “Ảnh không chịu gởi thơ về cho tui. Mấy ngày rồi.
Mấy tháng rồi. Mấy năm rồi. Tui đi kiếm ảnh nhiều nơi. Thằng con tui
cũng bỏ tui mà đi. Nó mới mấy tuổi đầu mà cũng đi đâu mất. ”
Cô này đúng là khùng như chị bán
hàng hồi nãy đã nói, tôi lo lắng. Hay mất trí? Cô ta tiếp tục lảm
mhảm:
“Không biết ảnh ở đâu. Đi tìm nhiều
nơi lắm, nơi nào cũng có có không không. Người ta chỉ tui tới đây mấy
lần rồi, ảnh không chịu gặp tui. Trước cúng sau cấp, tui đem lên cho
cho ảnh ăn. Chớ có tính bán buôn gì đâu, mà mấy bà hồi nãy la rầy
dữ quá. Anh thích thì cứ lấy một chén chè mà ăn. Có tiền trả,
không có tiền, ăn chịu. Ăn một chén thôi. Rồi đi nơi khác chơi.”
Tôi chợt nghĩ đến người bạn thân đã
bị chuyển trại. Hay đã chết? Tôi buột miệng hỏi:
“Có phải ảnh tên Chí?”
Người đàn bà giật bắn mình, mở to
mắt, lắp bắp:
“Đúng, đúng, đúng. Sao, sao anh biết?”
Đứng nhón chân lên, hớt hơ hớt hải nhìn bốn phía. “Anh ơi, anh ở đâu?”
Xoay qua tôi. “Anh dẫn tui tới ảnh đi.”
Tôi bối rối:
“Này chị. Hãy từ từ. Để tui tính.
Anh Chí trước kia cùng B với tôi.”
“Chí cái gì, Bê cái gì …”
Tôi ngắt lời:
“Nhưng, nhưng …” Tôi không dám nói Chí
không còn ở chung B với tôi nữa. Lòng còn chút hồ nghi, tôi hỏi thêm.
“Chị có ba đứa con phải không? Đứa lớn nhất có lẽ đã vào đại
học. Ô, chị còn trẻ quá, có lẽ nào …”
Người đàn bà ngẩn ngơ, đưa bàn tay xua
xua, rồi phá lên cười:
“Tui ba con. Sao nhiều quá vậy. Một
thôi. Hai cũng chưa ra nổi lấy đâu có ba, có bốn.” Bỗng ngồi bệt
xuống đất hai tay ôm mặt khóc nức nở, nói qua làn nước mắt. “Mà …
mà … mà một cũng không xong. Bé ngoan sao lại hư vậy … sao lại cũng
bỏ mẹ mà đi, mà … đi chơi … Đi đâu lâu quá không về. Anh ơi. Anh Chính
ơi, anh về ngay. Anh và em đi tìm nó!”
Tôi lặng người. Vài người bạn tù
thấy thế vội bước tới. Người đàn bà hoảng sợ vói hai tay vồ lấy
chiếc rổ đứng lên định chạy. Tôi giữ lại, lúng túng, nói:
“Chị ngồi lại đây một chút, xin ngồi
lại một chút thôi. Tui có chuyện muốn thưa chuyện nhiều nhiều với
chị, với các bạn. Có gì trở ngại đâu, phải không các bạn? Tụi tui
không hung dữ đâu, chị đừng sợ.”
Nghe tôi nói thế, không ngờ người đàn
bà ngoan ngoãn đặt rổ xuống đất ngồi lại chỗ cũ, nghiêng đầu vểnh
tai lên về phía tôi, như muốn nghe cho rõ tôi sẽ nói gì. Mấy người
bạn ngạc nhiên trố mắt nhìn tôi. Một người lên tiếng:
“Có chuyện riêng muốn nói với nhau
hả? Thì bọn tui đi chỗ khác.” Vừa bước một bước, như sực nhớ điều
gì, quay lại nói tiếp. “ Này chị, chị có vẻ không phải là dân vùng
này, phải không?”
“Tui ở Sài Gòn.”
“Khi nào chị về Sài Gòn?”
“Về Sài Gòn hả? Về chớ sao không về.
Về, về. Về ngay bây giờ. Có anh Chính cùng về với tui nữa.”
Người tù lộ vẻ vui mừng rút từ trong
túi áo bao cát một bao thư nhàu nhò đưa cho người đàn bà, thì thầm:
“Thơ tui viết sẵn từ lâu mà không gởi
được. Dặn vợ lần thăm nuôi sắp tới đem vài thứ thuốc. Chỉ có vậy
thôi. May quá nay gặp chị. Nhờ chị về Sài Gòn bỏ vô bưu điện. Đã
viết sẵn địa chỉ. Có điều xin chị thương tình mua cho tui con tem dán
lên cho. Chị làm ơn nhé, tui đội ơn chị vô cùng.”
Người đàn bà ngơ ngác cầm lá thư sửa
soạn cho vào túi áo. Bỗng cán bộ quản giáo, theo sau là lính bảo
vệ, có lẽ đã quan sát từ nãy đến giờ, chạy vọt tới. Anh ta nhanh
như chớp giật lấy bức thư trong tay cô ta và bỏ ngay vào trong chiếc
cặp. Anh gằn giọng, nói qua kẽ răng:
“Hai người theo tôi.”
Người tù vừa đưa thư đứng sững, mặt
xanh như tàu lá. Người đàn bà run lẩy bẩy, cặp mắt điên dại như mắt
con thú rừng vừa bị sập bẫy. Màu đen đôi mắt chuyển dần thành màu
trắng dã và, lạ quá, trong một thoáng, hai chấm đỏ hiện lên mơ hồ.
Tôi nhớ trong một câu chuyện có đề cập
đến săn bắn[2], tác giả cho biết trừ mắt người và
voi không phản chiếu ánh đèn, ngọn đèn săn trong đêm quét đến đâu thì
trong vòng 50 thước ta thấy hiện lên những chấm sáng, từ cặp mắt cọp
sáng rực, đến mắt nai, mắt nhái, mắt nhện.
Nhưng đó là ban đêm với ngọn đèn săn.
Đằng này mới xế chiều, không đèn, lại là mắt người. Tôi trông gà
hóa cuốc chăng? Làm sao có chấm đỏ trong mắt của người đàn bà?
Tôi chồm tới. Lính bảo vệ chỉa súng,
lên đạn. Tôi dừng lại, lắp bắp nói :
“Thưa, thưa cán bộ. Cán bộ xét lại
cho, cho. Chị này điên.”
“Anh im ngay.” Gằn từng tiếng. “Điên
thật hay điên giả? Điên thật ư? Cũng có cách. Đinh hết điên.”
Dường như muốn rõ nghĩa hơn, anh ta
nhắc lại cái ý đó, nói qua kẽ răng:
“Đinh đục vào, điên văng ra.”
Hồi tôi còn ở Trảng Lớn, Tây Ninh, có
một anh tù gốc Quảng Trị bị “mát dây”, ưa lý sự, châm chọc, nói văng
mạng, phạm húy. Lại thường chen tiếng Pháp vào. Thỉnh thoảng anh hét
to, Tao điên đây, tao điên đây, tụi bay làm chi được tao nào. Sau đó anh
bị đưa đi đâu hết mấy tuần lễ. Lúc trở về với bạn tù, anh im lặng
một cách khó hiểu. Giống như Chí trước kia. Những lỗ tròn nhỏ như
đầu chiếc đũa tím đen bao quanh bởi lớp da đỏ bầm lấm tấm trên trán,
trên hai mép của anh. Bị gặng hỏi nhiều lần về những vết tím đen
đó, anh không thoái thác được, đành lầm bầm trả lời, Đinh … đinh …
Lúc đó chúng tôi không hiểu anh nói gì. Nay thì hiểu rồi, đinh đục
vào, điên văng ra. Quản giáo đã buột miệng tiết lộ sự thật chứ không
phải hù dọa.
Bỗng quản giáo nhíu mày ngẫm nghĩ,
ngập ngừng liếc nhìn tôi. Ánh mắt đột nhiên chuyển qua dịu dàng,
hiền từ, anh ta chậm rãi nói chung cho mọi người nghe bằng một giọng
ấm áp:
“Nhưng thôi. Cần gì phải mạnh tay đến
thế nhỉ. Cách mạng đã có rất nhiều cách xử lý rất tốt cho những
sự cố như thế này. Và rất khoan hồng, rất nhân đạo.”
Nói xong, cái vẻ hiền từ vụt bay đi
mất, quản giáo nghiêm mặt nhắc lại lệnh:
“Anh kia, chị kia, theo thôi.”
Thật bất ngờ, người đàn bà lao vào
tôi, ôm chầm, nói đứt quãng:
“Anh Chính! … anh Chính! … Cứu em! …Cứu
em với!”
Tôi phản ứng như máy, gỡ những ngón
tay của người đàn bà ra, hơi khó khăn, và đẩy nhẹ cô ta về phía quản
giáo. Cô buông tay, lảo đảo, sửng sốt nhìn tôi. Cặp mắt đó, lại hiện
lên đốm đỏ, chất chứa một điều gì rất khó hiểu. Khinh bỉ? Căm hờn?
Nó sẽ đeo đuổi tôi mãi. Nó sẽ làm hỏng đời tôi sau này.
Quản giáo bước đi trước, hai bàn tay
khoát khoát xua đuổi tôi và mấy anh tù đứng gần đấy đi nơi khác. Hai
“tội phạm” riu ríu bước theo, lính bảo vệ cầm súng đi sau cùng. Tôi
hụt hẫng. Mọi người im lặng ngơ ngác nhìn.
Cảnh tượng vừa rồi vẫn thường xẩy ra
sau khi Miền Nam thất thủ. Như giữa sói và cừu. Trên một cánh đồng êm
đềm, một đàn cừu ngoan ngoãn gặm cỏ. Bỗng một con chó sói xuất
hiện. Đàn cừu hoảng hốt chạy tán loạn. Con sói rượt theo vồ được một
con cừu, cắn vào cổ, vật ngã, rồi ngồi xuống từ từ nhai ngấu
nghiến con mồi. Đàn cừu thấy yên yên dừng lại quay nhìn. Cừu, hơn cả
dê, thích nhìn xa. Có con động tính hiếu kỳ, tiến lên mấy bước,
giương đôi mắt ngây thơ nhìn cho rõ hơn.
Tôi cay đắng thầm tự so sánh với con
cừu ngây thơ. Tôi tệ hơn.
Rừng mùa Đông mau tối. Chúng tôi không
ai có đồng hồ, 6 giờ rồi chăng? Tiếng trời gầm nghe không xa lắm. Một
cơn gió chạy luồn theo khe núi tạo nên những tiếng hú dài. Cây, cành
nghiêng ngã, lá rụng ào ào. Chắc sắp đổ mưa. Trên đường về, đến
phiên tôi phải vác bó cuốc nặng. Lạ chưa, đi cắt tranh mang cuốc? Chắc
quản giáo tính lộn, tôi thầm nghĩ. Và nhớ một câu nói “thuộc
lấy làm lòng”của quản giáo: “Chúng tôi không bao giờ nhầm lẫn.”
Mưa đổ xuống thật. Đội mưa đi mà không
thôi nghĩ đến người đàn bà và anh bạn tù.
Này này, tôi nói với tôi, nếu mày
không lẩn thẩn con cà con kê thì đâu đến nỗi. Giá mày có tư cách hơn,
có dũng khí hơn. Chẳng biết họ sẽ ra sao? Cái anh chàng đó chắc sẽ
bị biệt giam. Hay chuyển trại. Hay là, hay là? Và người đàn bà Sài
Gòn mất trí? Điên? Đinh?
Con đường đê nhỏ xíu bề ngang chỉ hơn
một gang tay, lầy trơn, lồi lõm, khó bước. Tôi tháo dép râu treo lên
cán cuốc đi chân không cho dễ bám đất. Lòng nặng trĩu, bước loạng
choạng, tôi trượt chân té xuống một cái ao đầy nước bên đường. Nằm
sóng soải, nước ngập đầu, bó cuốc bung ra. Một lưỡi cuốc chém vào
bắp chân phải của tôi, và chạm vào xương đầu gối. Máu chảy nhiều.
Anh lính bảo vệ đứng lại, chỉa súng, chờ.
Tôi lóp ngóp ngồi dậy, loay hoay bó
lại bó cuốc cho chặt hơn, rồi cởi trần lấy áo bao cát quấn vào vết
thương cho cầm máu. Lạnh run cầm cập. Đoàn tù đi qua, đi qua, lặng lẽ.
Trong bóng mờ tranh tối tranh sáng, có lẽ họ không thấy tôi bị thương.
Họ không quan tâm mấy, trượt té là chuyện nhỏ. Hơn nữa, họ không được
tự ý đứng lại khi không có lệnh. Khi tôi đứng dậy, mới nhận thấy
mình là người đi áp chót. Người đi cuối là lính bảo vệ.
Nhưng không phải thế. Ngoảnh mặt nhìn
lui tôi thấy, không xa lắm, không được rõ lắm, trong bìa rừng, bóng
dáng mấy người. Tôi cố nhìn kỹ. Một lính bảo vệ súng cầm tay, và
thêm hai người nữa. Nhìn kỹ hơn, đúng là anh bạn tù đưa thơ lúc nãy
hai tay bị trói quặt ra sau lưng, đi lom khom, và người đàn bà Sài Gòn
hai tay cũng bị trói, nhưng đưa lủng lẳng ra đằng trước. Từ trước đến
giờ tôi vẫn nghĩ chỉ có một quản giáo và một bảo vệ dẫn chúng tôi
đi lao động. Thì ra số người canh gác, số lính “bảo vệ” chúng tôi,
có thể lên đến ba, bốn, hoặc nhiều hơn tuỳ theo nhu cầu, hoàn cảnh.
Nhưng họ không lộ diện.
Lẫn trong tiếng mưa rơi và tiếng gió
hú, là tiếng rên rỉ, than thở, khóc lóc của người đàn bà. Có lúc
rít lên nghe như tiếng con heo đang bị thọc huyết, có lúc gõ từng
giọt đều đều như tiếng cú rúc trong rừng khuya.
Tôi đặt bó cuốc lên vai, chạy lúp xúp
cho kịp đoàn tù đi đằng trước, mấy lần lại suýt trượt té. Tôi chạy
bươn bươn, vượt qua gần hết đoàn tù. Tôi chạy như chạy trốn. Tôi không
muốn nghe. Tôi không muốn thấy. Nước mắt tự dưng tuôn ra hòa với nước
mưa chảy dài từ cái đầu ướt mèm xuống cằm. Mấy người đi trước, tôi
trông như những hình nộm múa may, quờ quạng. Bỗng tôi nghe văng vẳng.
Mọi thứ âm thanh, mọi tạp âm đều bị gạn lọc hết, tôi chỉ nghe những
tiếng khóc, tiếng rú, tiếng than. Và núi rừng, cây cối cũng đều bị
nhạt nhoà, tôi chỉ còn trông thấy đôi mắt đen tối, trũng sâu, đầm
đìa. Rồi nó đổi màu, nó biến thành hai đốm lửa, lan ra, lan ra mãi
thành đám cháy lớn. Khu rừng rực lửa trong tôi.
Đầu óc tôi đã bị gột sạch những liên
tưởng, những hình ảnh, những âm thanh cũ, những thứ lâu nay đã đeo
đuổi theo tôi mỗi khi tôi đi lao động trong rừng xa. Vâng, mới đây thôi,
mới hôm qua, rừng càng xa càng khiến lòng tôi phơi phới. Tôi biết rằng
chuyến đi hôm nay đã giết chết trong tôi nhiều thứ tình cảm rối rắm,
chẳng hạn như tình thương đối với người lính bảo vệ trông thật vô tư.
Và cả tình yêu tôi ấp ủ từ thuở nhỏ đối với núi rừng.
Trước kia rừng là nước, tôi là cá.
Hết rồi. Rừng nay là lửa. Lửa nung nấu tim gan.
oOo
Nắng kéo dài nhiều tháng. Bây giờ,
cuối năm, trời bỗng đổ một trận mưa thật lớn như muốn ban cho năm cũ
một chút ơn huệ vớt vát muộn màng. Trong những phút đầu tiên của
trận mưa ấy, con đường nhựa trở nên trơn trợt, xe phải chạy chậm lại.
Sau đó khoảng vài mươi phút, mặt đường mới sạch nhẵn lớp bùn lầy,
bánh xe mới dễ bám.
Tuy thế, một chiếc xe hơi cũ kỹ vẫn
chạy nhanh trên đường Edinger theo hướng từ Tây sang Đông. Người lái xe
là một ông già hơi gầy, cao cao, tóc bạc phơ, trông yếu ớt, mệt nhọc.
Phục sức luộm thuộm. Đôi mắt nhớn nhác chứng tỏ một tâm hồn không
ổn định. Mang một thứ bệnh nào đó liên quan đến thần kinh chăng? Hẳn
nhiên ông già già hơn chiếc xe nhiều. Đuổi theo sau chiếc xe đó là một
xe Cảnh Sát đèn chớp, còi hụ.
Mưa lớn, đường Edinger vắng, không gặp
đèn đỏ, chiếc xe hơi cũ vượt nhanh qua những đường giao lộ như
Magnolia, Brookhurst. Chạy hết Mile Square Park, chiếc xe quẹo gấp qua
trái trên đường Euclid. Lái xe cái kiểu đó có ngày chết. Xe Cảnh Sát
vẫn lẽo đẽo đuổi theo sau cách một quãng ngắn. Mưa càng lúc càng
lớn. Cái gạt nước không kịp gạt hết những giọt mưa đập lên kính
chắn gió. Cảnh vật trước mặt ông già do đó bồng bềnh, nghiêng ngửa.
Kính chắn gió đằng sau của xe thì bị phủ đầy sương đêm chưa kịp tan,
và nước mưa. Ông đã bấm nút “Làm tan băng.” Xe cũ. Những nút bấm
không kích hoạt nhanh.
Chiếc xe lại tiếp tục vùn vụt chạy
qua các đường Mc. Fadden, rồi Bolsa, rồi Fifth, rồi Hazard. Thấy đèn
giao thông màu vàng xuất hiện, ông càng đạp thêm ga cho xe phóng nhanh
để kịp vượt qua đèn đỏ.
Bỗng bảng tên đường Emperor Quang Trung
hiện lên mờ mờ dưới cơn mưa càng lúc càng nặng hột. Ông đạp thắng
gấp, quẹo nhanh qua trái để vào một Khu Doanh Thương. Xe trượt trên lớp
nước tràn ngập đường, lủi vào đụng cột đèn điện đánh sầm một
tiếng. Và nằm nghiêng cạnh mép đường, đầu xe chìm một phần trong làn
nước. Quên tắt máy, ông nhăn nhó quay nhìn cái tay lái bị đầu gối
phải của ông chạm mạnh vào, lệch qua một bên. Cây gậy gỗ nằm cạnh
cửa xe gãy làm đôi. Máu chảy ra khá nhiều, thấm đỏ ống quần. Ông tỏ
vẻ đau đớn, càu nhàu, Lần này bác sĩ dở hơi giở trò hỏi đau bao
nhiêu từ không đến mười, sẽ đáp không chút phân vân đau chín. Hay mười?
Chiếc xe Cảnh Sát chạy theo đằng sau
quẹo ngay vào. Từ trên xe bước xuống một cảnh sát giao thông cao lớn,
lực lưỡng. Ông ngồi yên chờ. Người cảnh sát ra dấu bảo ông hạ kính
xe xuống. Ông làm theo.
Câu đầu tiên của cảnh sát:
“Ông có bị thương không?”
Ngần ngừ một chút, ông trả lời:
“Không, không sao cả. Hoàn toàn không
bị thương.”
Có lẽ ông nghĩ nói như thế sẽ bị
phạt nhẹ, hay tha bổng. Là vì mình làm mình bị thương khi lái xe
cũng là phạm luật chứ? Lái xe gây thương tích cho người ta là lỗi
nặng, mình cũng là người ta. Bị phạt nặng, rồi còn bảo hiểm tăng,
có khi bị “treo giò” mấy tháng. Đời nào!
Anh cảnh sát bảo ông tắt máy, yêu cầu
ông trình bằng lái xe, giấy bảo hiểm, giấy thuế lưu hành hàng năm.
Xem qua một lượt, cảnh sát nói tiếp:
“Ông chạy quá tốc độ. Hai lần vượt
đèn đỏ. Làm gì mà chạy nhanh dữ thế?”
Ông liếc nhìn đồng hồ, nói:
“Tôi có hẹn với bác sĩ đúng 9 giờ
sáng hôm nay. Tôi ngủ quên. Sợ trễ hẹn. Thật ra tôi không vượt đèn đỏ.
Vượt đèn vàng thôi. Cái đèn vàng mau tắt, còn cái đèn đỏ thì mau
hiện. Có thế thôi.”
Anh cảnh sát mỉm cười. Thấy anh cảnh
sát trẻ trung không khó đăm đăm như những cảnh sát khác mà ông đã gặp
nhiều lần trong những dịp như thế này, ông cố kéo dài câu chuyện.
Biết đâu, anh ta sẽ thông cảm, nhẹ tay. Có lẽ nghĩ như thế, ông hăm hở
tranh nói trước khi cảnh sát hỏi tiếp:
“Tôi bị thương ở đầu gối lâu ngày, từ
hồi, từ hồi … Cũng cơn mưa lớn như thế này, mưa trên rừng. Chữa mãi
không lành. Tôi đi khập khiễng nhưng ngồi lái xe thì bình thường.
Nghĩa là không có vấn đề gì. Thời tiết thay đổi, nhức nhối khó
chịu lắm. Nhất là ban đêm không ngủ được. Nay được bạn bè mách nước,
bảo tập thể dục mới khỏi, chứ thuốc thang không ăn thua. Tôi thử tới
bác sĩ Vật Lý Trị Liệu trong khu này …”
Anh cảnh sát ngắt lời:
“Vâng, tôi nghe đủ rồi. Nhưng tôi đuổi
theo, đèn chớp, còi hụ, sao ông không chịu dừng lại?”
“Trời mưa lớn quá, tôi không nghe gì
cả. Cũng không thấy đằng sau. Cái kính sau đó mà, nó bị nước mưa che
hết. Hơn nữa tôi lãng tai nặng. Cửa xe đóng kín, không mưa tôi cũng
không nghe. Không lẽ anh không biết điều đó?”
Anh cảnh sát như vô cảm, lấy cái máy
lớn hơn bàn tay bấm bấm trên các ô, xong chìa ra cho ông và nói:
“Thế hả? Đây, xin ông vui lòng ký vào
đây.”
Ông già đầu khặc khừ, nhăn mặt, bặm
miệng, mắt muốn đổ lửa. Không còn lẩn thẩn con cà con kê nữa, cũng
không buồn xem cảnh sát ghi gì trong máy, ông ký rẹt một cái. Anh
cảnh sát lấy lại máy, in tờ biên nhận và trao cho ông. Ông lạnh lùng
nói:
“Cám ơn.”
Cảnh sát lạnh lùng đáp:
“Cám ơn.”
Khi anh cảnh sát quay người sắp đi
dưới cơn mưa, ông hỏi vói:
“Phạt tui hả? Bao nhiêu tiền?”
Anh cảnh sát không trả lời, nhún vai,
đi thẳng. Ông sực nhớ Cảnh Sát chỉ làm biên bản. Tòa án sẽ quyết
định phần còn lại.
Ngự Thuyết
1/2019
1/2019