Tiếng dạ, tiếng thưa: một biểu tượng nhân
văn của văn hóa Huế.
Thiếu nữ trong thành nội
dinhcuong
Nhận diện văn hóa của một đất nước hay của
một vùng đất nào đó trên mặt địa cầu nầy thường có quá nhiều hình tượng và đề
tài để nói: Có thể đó là “biểu tượng nhân văn” do con người dựng lên hay nhờ có
bàn tay con người gìn giữ và bảo vệ sản phẩm của thiên nhiên lâu dài mới còn tồn
tại. Như tháp Eiffel của Pháp, Kim Tự Tháp ở Ai Cập, lá phong ở Canada hay con
chuột túi (Kanguru) ở Úc. Hoặc có khi chỉ là một âm vị của ngôn ngữ như tiếng
“Ok” của Mỹ, “Amen” của đạo Chúa và “Nam mô” của đạo Phật… Nhưng rốt lại, chỉ
còn một nét nào đó nổi bật nhất mà chỉ cần nhìn hay nói ra là sẽ nhận được ngay
câu trả lời tên nước, tên vùng.
Chắc nhiều người còn nhớ ngày Hội Huế đầu
tiên trên vùng đất thủ phủ tiểu bang California, thành phố Sacramento năm 1985,
khi nhà thơ Thành Đạt đưa giải thưởng “1000 hột sen Tịnh Tâm” rất quý hiếm vào
thời điểm nầy cho ai chọn “một cái gì” bình dân và đơn giản nhất mà ai cũng biết
cũng quen dùng tượng trưng cho Huế. Người ta đã đưa ra nhiều hình ảnh, tiếng
nói làm “biểu tượng” cho Huế như chùa Thiên Mụ, Cầu Trường Tiền, Cửa Ngọ Môn,
núi Ngự Bình; hoặc tiếng nói: “Mô, Tê, Răng, Rứa”…
Nhưng kết quả thật thú vị vì người trúng giải là chị Tịnh Như đã chọn tiếng “Dạ”
làm biểu trưng cho Huế. Nhiều người trong cuộc Hội Huế không đồng ý vì tiếng “dạ”
là tiếng Việt mà người dân trong cả ba miền Bắc Trung Nam đều dùng chứ không
riêng gì ở Huế. Tuy nhiên chị Tịnh Như đã lý giải một cách đầy thuyết phục rằng:
“Tiếng ‘Dạ’ là vũ khí văn hóa, nhân văn đặc thù của Huế vì nó được dùng như một
phương tiện diễn đạt cảm xúc và ý nghĩ từ thấp đến cao, từ cạn đến sâu, từ phục
tùng đến phản kháng, từ yêu thương đến thách đố, khước từ…”
Trường hợp điển hình:
– Hỏi: Con thích bún bò Mệ Chéo không?
– Đáp: Dạ, con thích lắm! (Tiếng “dạ” đồng ý, khẳng định)
– Hỏi: Anh nhớ em…
– Đáp: Dạ, em cũng nhớ anh lắm (tiếng “dạ” đồng tình, cảm xúc)
– Hỏi: Con đi với thằng Nam cả canh buổi chừ
mới về phải không?
– Đáp: Dạ (ạ… ă… ắ…)?! ( Tiếng dạ uốn lượn và nhấc lên cuối câu để tỏ bày câu
trả lời vừa xác định vừa nghi vấn như nói rằng: “Con có đi với anh ấy mà có can
chi không?”)
– Hỏi: Con khoan đi, ở nhà rửa chén bát
xong rồi đi”
– Đáp: Dạ (a… à… ạ…)! (Tiếng dạ kéo dài và rớt xuống nặng nế cuối câu để diễn tả
sự vâng lời nhưng miễn cưỡng, bực bội)
– Hỏi: Con có nghe tin đồn đó không?
– Đáp: Dạ (a…á)? (Tiếng dạ như một câu hỏi lại)
Trong nhiều hoàn cảnh và địa phương khác
nhau, tiếng “dạ” của Huế còn được sử dụng một cách tinh tế, diễn cảm, bất ngờ
nhưng lại có tác dụng như cả một lời diễn đạt và giải thích khéo léo bằng âm
thanh qua tiếng nói.
Khi tiếng “thưa” đi kèm sau tiếng “dạ”
thành “dạ thưa” là lời khai mở cho câu nói trang trọng, lễ độ; nhưng cũng có
khi ngại ngùng và xa cách. Tiếng “dạ thưa” dùng phổ thông trong đại chúng: “Dạ
thưa bà con, tui xin có ý kiến…” là một cách bày tỏ sự tôn trọng, lễ độ. Nhưng
tiếng “dạ thưa” lọt qua cửa ngõ tình tự: “Dạ thưa, em còn nhỏ; thương rồi mà
chưa biết yêu!” thì có cơ trở thành… bùa mê (?!)
Trong bối cảnh văn chương nghệ thuật Việt
Nam, những trao đổi khách quan thật khó. Anh nhà văn thì cho rằng: “ Thi sĩ là
nhà văn không thành!”. Đối lại, những nhà thơ thì lại cho rằng: “Văn sĩ là nhà thơ
không thành!” Nhưng con người và cách nói chỉ là phương tiện; trong khi cứu
cánh tinh hoa của nghệ thuật chính là tác phẩm. Những sáng tác văn học nghệ thuật
chính là tụ điểm của nghệ thuật, nơi đó, cả nhà thơ, nhà văn và muôn nhà nghệ
sĩ gặp nhau. Như trong phương ngữ Huế, tiếng “dạ, thưa” là một tụ điểm của nghệ
thuật và đời thường đã khiến cho cả người trong cuộc và kẻ bên ngoài đều muốn
nghe, muốn nhận, muốn còn và muốn được. Không ai có thể từ chối lắng nghe với
niềm cảm khái trước điệu nói dịu dàng của người con gái Huế hầu như trong mọi
tình huống và hoàn cảnh; dẫu đó là sự lễ độ, bày tỏ, câu hỏi, lời mời hay khước
từ thì tiếng “Dạ… thưa” đều được nói lên một cách tự nhiên, hòa quyện trong từng
câu nói, không điệu đà sắp xếp nhưng tác dụng của sự lễ độ, khiêm cung, gọi mời,
xác quyết : “Dạ thưa dì, mời dì ngồi chơi. Dạ con không biết mạ con đi mô…” hay
“Dạ con học lớp 10…”, “ Dạ thưa anh, anh tên chi?”, “Dạ mời anh ghé chơi” và cả
“Dạ em không thích” và rất nhiều “dạ…thưa” hòa quyện trong từng câu nói.
Người ngoài xứ, đặc biệt là giới văn nghệ
sĩ, viếng Huế rồi ra đi, ai cũng mang theo trong hành trang nghệ thuật của mình
tiếng “Dạ… thưa” của Huế.
Trác tuyệt mà tửng tửng như Bùi Giáng đã
đưa tiếng dạ thưa của Huế thành một suy niệm “như như tự tại”:
Vào thôn xóm trọ một mùa
Qua xuân tới hạ ghé chùa chiền hoa
Cô nương mắt ngọc răng ngà
Nhìn bồ tát gọi rằng là: dạ thưa
– Dạ thưa phố Huế bây giờ
Vẫn còn núi ngự bên bờ sông Hương
Hoặc như Xuân Hoàng đã nâng tiếng dạ thưa của
người con gái Huế thành “tứ biểu tượng” của Huế là: Mưa Huế, chùa Huế, sông
Hương và tiếng dạ thưa của người con gái:
“Ở đây dằng dặc những ngày mưa
Bông sứ trầm tư lặng cổng chùa
Có một dòng sông trôi chẳng nỡ
Có người con gái “dạ, xin thưa…”
(Nét Huế – Xuân Hoàng)
Và, Huỳnh Văn Dung đã phóng chiếu tiếng dạ
thưa ngọt lịm thành nỗi đam mê sương khói:
Giữ chút gì rất Huế mặn mà
Dạ thưa, ngọt lịm ai mê say
Em đi gót nhẹ xanh hồn cỏ
Và hơi thở mềm sương khói bay
(Rất Huế – Huỳnh Văn Dung)
Thời gian trôi qua, không gian thay đổi và
con người chuyển biến theo hoàn cảnh. Nhưng chỉ riêng tiếng “Dạ… thưa” của Huế
là không biến tướng, thay hình đổi dạng. Tiếng Huế có hai kiểu cách bày tỏ: Giọng
Dinh và giọng Quê. “Giọng dinh” là cách nói và phát âm của những người Huế ở
thành phố hay là những người Huế được tiếp cận nhiều với bài bản và sách vở nên
giọng nói nhẹ, tiếng dùng gần với tiêu chuẩn quy ước. Trong khi đó thì “giọng
quê” phát âm nặng với nhiều từ ngữ không có trong sách báo, từ điển. Ví dụ. Giọng
dinh: “Hai vợ chồng đó gây nhau, ra giữa sân đánh nhau!” Giọng quê: “Hai cấy
dôn nớ ngầy dau, ra trửa cươi đập chắc!” Dẫn chứng này có tính cách hơi thậm
xưng nhưng minh họa được tính cách đa dạng của phương ngữ Huế. Thế nhưng, trường
hợp tiếng “dạ… thưa” thì đặc biệt khắp mọi vùng nông thôn và thành thị Huế đều
biểu hiện như nhau.
Những người xa Huế hơn ba chục năm khi trở
về thăm Huế, có thể thấy chiếc áo dài của những “o”, những “thím”, những “dì”
buôn gánh bán bưng ít đi, nhưng tiếng “dạ…thưa” thì vẫn còn nguyên mượt mà trên
từng cửa miệng. Khách phương xa về thăm Huế, tản bộ trên các vùng quê, thường sẽ
rất ngạc nhiên và thú vị khi nghe và thấy các cháu học sinh trường làng, cúi đầu
cung kính chào: “Dạ thưa ôông!” mà không cần biết quen hay lạ.
Ngôn ngữ là một phương tiện đặc thù của từng
nhóm người và xã hội. Tuy tiếng Việt “dạ…thưa” đâu cũng có nhưng với âm điệu giọng
Huế nó trở thành trầm lắng và khiêm nhã một cách tự nhiên không mang tính nghi
thức hay khách sáo.
Đặc biệt, thế hệ trẻ gia đình gốc Huế sinh
ra và lớn lên ở nước ngoài, nếu còn nói được tiếng Việt thì tiếng “dạ…thưa” vẫn
còn được kế thừa như một gia sản đầy hương hoa chưa nỡ bị đánh mất hay đi vào
quên lãng.
Sacramento, mùa Tết Kỷ Hợi 2019
Trần Kiêm Đoàn
Trần Kiêm Đoàn