Thông thường phản ứng đối với một hành động sẽ tránh được
tính cách nông nổi, bộp chộp, chủ quan, hoặc thiếu bình tĩnh, nếu giữa hành động
và phản ứng ấy có một quãng thời gian trống. Phản ứng có thể là một hành động
chống lại, hay chỉ là một thế đứng, một nhận định, một góc nhìn. Và quãng thời
gian trống có thể được gọi là thời gian làm trái độn, một độ lùi, dài ngắn khác
nhau, có thể tính bằng giây phút, hay ngày giờ, hay thậm chí tháng năm, hay nhiều
năm, tùy theo tình huống của sự việc. Anh nghĩ đến điều vừa nói và một câu chuyện
cũ của mấy mươi năm về trước. Thời gian làm trái độn như thế quả là khá dài,
dâu biển đã xẩy ra, nhưng cũng có cái bất biến, hay chưa chịu đổi thay. Thì cứ
kể lại, xem như một bằng chứng nhỏ nhoi, một tấm ván chìm nổi trong bão biển.
Hôm đó, anh phải đi dạy học 12 tiếng. Đạp xe đạp quá lâu,
quá nhiều để tới ba nơi dạy cách xa nhau. Đã thế, trên đường về, anh còn ham hố
ghé nhà người bạn thân mượn cuốn băng nó tự thâu lấy những bản nhạc nó thích.
Hơn 9 giờ tối anh mới về tới nhà, mệt nhoài.
Tối hôm ấy không điện. Trong căn phòng chật hẹp, bên một ngọn
đèn dầu hỏa tù mù đặt trên cái mặt bàn gỗ tạp sù sì, hai cái đầu kề nhau, một
tóc húi “ca-rê” của đứa con trai, một tóc “bum bê” của đứa con gái. Đứa con
trai ốm nhom, “xỏong”, chưa bao nhiêu tuổi mà má đã hóp; đứa con gái mắt đen, gầy
gò, xanh xao. Chúng đang học bài. Kế đó, trên chiếc giường tre, hai đứa bé tí,
hai khuôn mặt “chàu vau” thiếu sữa, nằm đùa giỡn với nhau, vô tư. Không có
phòng khách, không nhà bếp, nồi cơm được bắc trên chiếc lò than bùn đặt tại góc
phòng. Vợ anh đang nấu cơm. Chị hốc hác, quần áo cũ, nhiều miếng vá, rộng thùng
thình.
Bỗng anh bủn rủn tay chân, gân cốt rã rời. Phải cố gắng mới
dựng được chiếc xe đạp vào vách tường bên cạnh cái bàn học của hai con. Đó là
cái bàn duy nhất trong căn phòng duy nhất chật hẹp ngỗn ngang giường ngủ, ghế bố,
ghế đẩu, đòn, lò bếp, chén bát, nồi niêu.
Trước kia nhà anh rộng rãi, hai tầng, nằm trong khu yên tĩnh
của thành phố. Có khu vườn nhỏ, có xe hơi và chiếc lambretta. Đi làm, anh dùng
lambretta. Cuối tuần hay lúc nào cả nhà cần đi chơi đây đó, anh lái xe hơi. Vợ
lo việc nhà và đưa hai đứa con lớn đi học tại một trường tiểu học gần nhà, chỉ
đi bộ mươi phút là tới.
Anh đi tù lâu ngày. Đồ đạc trong nhà bán dần. Trước hết, bán
chiếc xe hơi, tiếp theo chiếc lambretta, và nữ trang. Rồi bán gần hết mọi thứ đồ
đạc, tháo hình ra bán cả cái khung ảnh, trước khi mua được một chiếc xe đạp
cũ.Nhưng cái nhà thì chị nhất định không bán. Chị cắn răng chịu khổ cực trăm
chiều, cố giữ lại cái nhà chờ anh về. Chờ mãi. Cuối cùng được tin nếu chị chịu
đi Kinh Tế Mới thì anh được về sớm. Thì bán nhà vậy, và chờ tin vui. Nhưng tin
vui không đến. Không sống nổi tại cái khu Kinh Tế Mới cằn cỗi “chó ăn đá, gà ăn
muối”, chị đánh liều lếch thếch mang bốn con về Sài Gòn, về thành phố quen thuộc,
thân yêu cũ. Chị biết may vá. Và tìm thuê được một căn phòng xập xệ ở Chợ Lớn,
nay vắng teo, trước kia là nhà chứa “đồ lặc xon” của một gia đình người Tàu đã
vượt biên. Nghe nói nhà cửa của người Tàu đó thuộc quyền sở hữu của Phường.
Có lần anh buông xuôi, nghĩa là không gồng mình chống chỏi,
vừa dẫn xe vào được trong nhà thì chiếc xe đạp và anh ngã lăn kềnh xuống đất
khiến vợ con hoảng hốt. Có bệnh tật gì đâu, chẳng qua “máu xấu”. Bụng đói, biết
nồi cơm sắp chín, thế là té xỉu. Chỉ cần cố gắng định thần lại cầm cự, khoảng
mươi phút thôi, cơn đói sẽ nguôi ngoai, anh sẽ hoàn hồn, đứng vững.
Nồi cơm vừa chín tới, chị đánh hắng một tiếng. Hai đứa lớn vội
gấp vở lại, chuồi xuống dưới bàn, sung sướng nhoẻn miệng cười, chạy nhanh đến mẹ
giúp dọn bữa ăn. Hai đứa bé tí cũng ngừng chơi, vùng dậy, tranh nhau chỗ ngồi gần
bố. Bố đi làm suốt ngày tối mới về, hai đứa nịnh bố. Trên mặt bàn, không khăn
bàn, bốn cái chén, bốn đôi đũa, một chén nước mắm ớt, một tô dưa cải và nước
khú. Hôm nay có cả một dĩa da heo luộc. Cạnh chị, nồi cơm độn bo bo vừa được dỡ
vung, khói bốc. Chị dùng đôi đũa cả, lớn và dài hơn đũa thường, xới cơm cho mọi
người. Và cầm cân nẩy mực.
Anh ăn thong thả, cố nhai kỹ. Anh hai ba lần nhắc nhở đứa
con trai tập nhai. Anh bảo nhai kỹ, thì dù chỉ có cơm với chút nước mắm mà
thôi, cũng ngon lành như thường, mà lại không phí phạm, nghĩa là bao nhiêu chất
bổ dưỡng trong cơm đều được hấp thụ trọn vẹn. Nhưng nó vô ý cứ láu táu ăn
nhanh, chỉ một nhoáng ăn xong hai chén cơm lưng trộn bo bo. Hôm nay lại lơ
đãng, ăn xong phần mình, nó chăm chú nhìn nồi cơm. Chị lừ mắt. Nó làm bộ giật
mình, đứng dậy nhún vai. Chị ăn chậm hơn cả anh, lại còn phải dùng muỗng nhựa
nhỏ đút cơm không bo bo cho hai bé. Bai bé sợ cay, có riêng chút nước mắm không
ớt. Bữa ăn trôi qua nhanh.
Trước khi lo việc rửa nồi rửa chén, đứa con gái vói tay bưng
cái nồi lên dòm xem có còn gì trong đó. Xong nó đưa hai chiếc đũa cả vào cái miệng
nho nhỏ, xinh xinh, cạp cạp, khới khới mấy hột cơm còn dính. Vừa nhai mấy hột
cơm như nhai chơi cho vui, nó vừa nhí nhảnh liếc mắt nhìn anh hài tội:
“Anh Đăng dở ẹt. Lâu lâu mới có da ăn mà toàn da chay. Tới
phiên em đi lần nào da cũng có dính lớp mỡ.”
Đăng gắt:
“Mày là con gái quen năn nỉ, quen xin xỏ. Tao khác.”
Từ ngày được “ra trại”, tức là ở tù xong, anh còn bị quản chế
thêm hai năm. Không được đi ra khỏi Sài Gòn. Lẽ dĩ nhiên tình nguyện dọn nhà đi
Kinh Tế Mới thì được chấp thuận ngay. Nhưng cái này mới là vòng luẩn quẩn, tiến
thoái lưỡng nan, đối với người được thả về từ nhà tù cải tạo: Phải có việc làm
mới có hộ khẩu tại Sài Gòn, nhưng phải có hộ khẩu mới được phép xin việc làm. Vậy
không sớm thì muộn sẽ bị tống khứ khỏi thành phố này. Cũng may, cái quyết định
oái oăm đó chưa được thi hành một cách nghiêm nhặt. Trong khi chờ đợi lưỡi gươm
Damoclès giáng xuống, cứ cuối mỗi tuần anh phải báo cáo sinh hoạt hàng
ngày với công an Phường. Anh được quản lý chặt chẽ.
Biết báo cáo cái gì đây? Không lẽ ngày nào cũng “thành thật
khai báo” y chang như nhau: ngủ dậy, đánh răng nếu còn kem đánh răng, kiếm chút
gì bậy bạ để ăn sáng, rồi ăn trưa hay nhịn ăn trưa, rồi chờ vợ đi làm về ăn tối,
cũng có khi anh về sau vợ, và cuối cùng trèo lên giường ngủ hoặc mất ngủ. Cho
nên anh nghe lời bạn bè gia nhập cái gọi là Hội Trí Thức Yêu Nước nằm trên đường
Nguyễn Thông với mục đích là để có một chuyện gì đấy viết vào cuốn sổ báo cáo
hàng ngày.
Hội cũng có sinh hoạt. Đọc sách báo, nghe đài, nghe thuyết
trình, đánh cờ tướng, đánh banh bông (bóng bàn). Thỉnh thoảng có lệnh đi đắp ụ
đại pháo, ụ tên lửa, hay làm mấy công việc lặt vặt “khuyến nông” trồng trọt, cuốc
đất, dọn sỏi đá, tại những ngoại ô. Anh không buồn tìm hiểu tại sao phải có những
ụ vũ khí đó. Hòa bình rồi mà. Anh không cần biết gì thêm. Như cái máy.
Anh nhớ một lần thấy tận mắt tại Hội Trí Thức Yêu Nước một
nhân vật nổi tiếng, ông Đào Duy Anh. Ông mặc áo bà ba, khăn choàng cổ rằn ri
đen trắng, mắt mệt nhọc, trán cao, người dong dỏng. Ông thuyết trình về một đề
tài liên quan đến Nguyễn Trãi, vấn đề “Công tâm”. Công tâm ở đây không phải là
lòng ngay thẳng, không thiên vị, và chữ “công” là động từ chứ không phải tính từ.
Cho nên “Công tâm” có nghĩa là tấn công về mặt tâm tình, tâm lý. Chợt trông thấy
giáo sư Nguyễn Đăng Thục ngồi bên dưới hàng thính giả, thế là ông bước xuống khỏi
khán đài trong khi ông Thục đứng dậy. Hai người bắt tay nhau. Anh ngạc nhiên. Họ
ở hai chiến tuyến lại có biết nhau? Hay là sau ngày Miền Nam mất, họ mới có dịp
làm quen?
Anh nhớ cả mấy câu nói đầu tiên của bài thuyết trình. Đại khái,
Lâu lắm tôi mới được trở lại đứng trên bục giảng, lại được hân hạnh đứng trước
những Người Trí Thức Yêu Nước.
Nói như thế là đủ “làm khó” nhau rồi, ông còn nói thêm, Tôi
không dám tự xem mình là Người Trí Thức Yêu Nước.
Anh không thể hiểu nổi những câu nói dẫn nhập đó. Mỉa mai
chăng? Mỉa mai hội viên hay người đẻ ra cái hội đó? Hay mỉa mai cả hai? Hay vì
bùi ngùi cảm khái?
Thỉnh thoảng Hội bán cho hội viên chút ít gạo hoặc nước mắm
với giá rẻ hơn giá thị trường. Và tháng nào Hội cũng một vài lần bán rẻ da heo.
Thì hai đứa con thay nhau đi bộ lên Hội mua đem về luộc ăn cho có thêm chất đạm.
Anh giấu việc đi dạy chui, kiếm chút tiền phụ vào tiền lương
tháng quá ít ỏi của vợ. Vợ là thợ tại một cửa hàng Hợp Tác Xã May Đo của Nhà Nước.
Ủa, hình như Đo rồi mới May chứ. Anh dạy tiếng Anh cho mấy gia đình có “ý đồ”
vượt biên. Anh cũng muốn vượt biên, nhưng đào đâu ra cây, ra tiền đóng cho bãi,
cho ghe. Thật ra tiền để dành sau khi bán nhà đã nộp hết cho mấy tổ chức vượt
biên. Đều thất bại.
Mình cứ tưởng Sài Gòn bằng phẳng êm ru bà rù. Lái xe hơi,
xe lambretta, chạy phon phon như chạy trên sân đá banh. Bây giờ hì hà hì hục đạp
xe đạp mới biết có dốc, và lên dốc là gì. Mà xuống dốc càng muốn ói. Thắng
không ăn, đưa gót chân kềm vào bánh sau, miệng làm còi hô to cho người ta
tránh, trầy da, văng dép, rách lai quần. Mà thành phố nào lại không có dốc. Dốc
lên, dốc xuống, dốc cao, dốc thấp, nhiều dốc, ít dốc. Chứ riêng gì Đà Lạt.
Gặp lúc ngược gió, bụng đói, tay chân rã rời, gò lưng đạp dưới
nắng gắt, mồ hôi càng tuôn ra ướt đẫm cả lưng, cả phần dưới lưng, không cần
nhìn ngược nhìn xuôi, anh biết ngay đang lên dốc trên con đường nào, ở quãng
nào. Đạp không nổi nữa thì chỉ còn cách xuống xe dẫn bộ tìm bóng cây.
A, cây này được đây. Cao, nhiều cành, nhiều lá. OK.
Anh dựng xe lại, quơ chân, quơ tay gom mấy chiếc lá rụng,
xua đuổi kiến. Kỳ cục, đâu cũng có kiến. Khi no kiến tới đã đành, khi đói kiến
cũng không tha. Anh nhớ những năm ở tù treo lòng thòng lên sà nhà mấy món ăn vợ
mang lên thăm nuôi, thế mà kiến cũng bò tới ăn tranh. Đuổi không đi. Có khi giận,
ăn luôn kiến. Ngồi lên trên lá, lưng dựa vào gốc cây, lim dim mắt, không dám ngủ,
sợ ngủ quên. Nghe lá sột soạt mỗi khi anh trở thế ngồi. Thấy êm êm đâm nghĩ vẩn
vơ. Hình dung lại những bữa ăn tối sum họp quanh chiếc bàn gỗ tạp xiêu vẹo. Cảnh
khổ nhiều khi gieo vào lòng anh những tình cảm dịu dàng, bất ngờ. Anh vừa âu yếm
vừa xót xa nghĩ đến vợ con nheo nhóc, những bạn bè khốn đốn như anh. Anh cho rằng
trong cảnh khổ, dường như tình thương dễ xuất hiện hơn; từ tâm, hay thử dùng
ngôn ngữ Phật Giáo, lòng từ bi, có cơ hội đâm chồi nẩy lộc hơn.
Nhưng hãy coi chừng. Sách nói bần cùng sinh đạo tặc. Ừ,
mình đã cùng khổ chưa? Gặp bước đường cùng liệu mình có biến thành kẻ cướp?
Rồi anh chột dạ.
Hay mình đang tự dối lòng, đang tự kỷ ám thị, đang bắt
chước Ả Q của Lỗ Tấn, Ta yếu hơn nó, ta già hơn nó, ta đánh nó không lại thì phải
sẵn lòng để nó đánh ta. Mà nó đánh ta thì có khác gì nó đánh bố nó. Thế là nó
có lỗi. Nó thua, ta thắng. Thế là “tự sướng”?
Nghỉ ngơi dưới gốc cây chưa được nửa tiếng, lại sắp tới giờ
dạy học tại một nhà khác tận vùng Chợ Thiếc cuối Chợ Lớn. Lần này dạy tiếng Anh
cho một cụ già người Hoa, nói tiếng Việt “chút chút”, và chỉ biết chữ Hán mà
thôi. Giướng mắt kèm nhèm hỏi, Chữ cái là cái gì, a bê xê là cái gì hà? Anh
ngán ngẩm. Nhổm dậy, phủi bụi bặm, lá cỏ khô dính trên quần, áo, năm ngón tay
làm lược chải lại mớ tóc bù xù, chụp cái mũ lên đầu, anh lên xe. Đạp, đạp, và đạp.
Cứ thế, ngày nọ kế tiếp ngày kia, đều đều như kim đồng hồ
quay. Cuộc sống trước mắt khô khan, chai lì, buồn nản. Không thấy bóng dáng nào
của tương lai. Quá khứ thì cố quên.
Nhưng ban đêm, khác. Anh có một chút sở thích, nhờ vậy cuối
ngày, trước khi đi ngủ, cũng được khuây khỏa phần nào. Vợ anh thì không. Ngày
cũng như đêm, khác hẳn trước kia, anh không hề nghe thấy một tiếng cười của vợ.
Anh để ý từ ngày anh ở tù về, chị cũng không hề thăm viếng bạn học ngày xưa,
không hề đi chùa, nói gì đến chuyện đi đến những Tụ Điểm Giải Trí, Âm Nhạc, hay
đi xem chiếu phim, hay đi du lịch.
Còn con cái? Hai bé tí nhỏ xíu khỏi nói, hai đứa lớn làm gì
cho hết ngày ngoài việc đi học? Tội nghiệp chúng nó, chỉ có những trò chơi thật
nghèo nàn, đơn sơ, thô thiển. Đứa con trai cùng bạn bè trong xóm, đa số không đến
trường lêu lổng suốt ngày, chơi trò tạt lon, đánh đáo, nhích hình, bắn bi – tất
nhiên bắn bi chai, bi đá bằng mấy ngón tay dính đầy đất cát, chứ làm sao có
súng đồ chơi. Đứa con gái thì ù mọi, đánh thẻ, nhảy dây, nhảy vượt qua, nhảy
xéo, nhảy lèo – không phải dây thừng, sợ vướng chân té u đầu, mà là dây kết bằng
những sợi cao su vòng tròn dùng cột những gói quà nhỏ. Chỗ chơi chung cho con
trai con gái là sân trường, lề đường, trước nhà, hay ngay trên mặt đường xe cộ
thường qua lại. Chúng chơi say sưa bất kể trời đất.
“Ham chơi như thế xe tới làm sao tránh?”
“Không sao cả. Xe tránh người chứ người đâu tránh xe.”
Có lẽ chúng cảm thấy tội nghiệp cho cha mẹ hơn là ngược lại.
Vâng, ban đêm, khác.
11 giờ đêm lại có điện. Lũ trẻ đã ngủ say. Vợ anh soạn ra những
món lỉnh kỉnh, mấy cây kim, những lọn chỉ màu, khung thêu, bút chì ... Ban ngày
chị làm việc tại cửa hàng may đo, ban đêm lãnh thêm đồ về làm.
“Hôm nay coi bộ anh mệt lắm đó nghe. Ngủ sớm đi anh.”
“Định đi ngủ thì có điện.” Anh uể oải đáp. “Ờ, mà cũng đi ngủ
cho rồi. Mai phải đi dạy sớm.”
Anh lên giường. Theo thói quen, anh mở cassettenghe nhạc trước
khi ngủ. Chị dịu dàng:
“Không sao, anh. Em không cần nghe đâu. Cứ vặn nhỏ lại nghe
một mình đi.”
Anh cười âm thầm, mở băng nhạc vàng mới mượn, mở thật nhỏ,
nghe chui. Đó là cái vui lặng lẽ và duy nhất của anh. Anh biết vợ cẩn thận. Nhà
kho này khá biệt lập, nhưng rủi có người nào tình cờ đi ngang qua nghe thấy. Hoặc
công an. Nguy hiểm lắm. Khóm Phường luôn luôn nhắc nhở: Thấy ai làm điều gì sai
trái, phạm pháp, phải báo cáo ngay lập tức. Nếu không, là đồng lõa. Nghiêm trị.
Anh nhìn vợ, nói, Xin tuân lệnh.
Bản nhạc đầu tiên, Nụ Cười Sơn Cước của Tô Hải. Tiếp
theo, Xóm Đêm của Phạm Đình Chương. Rồi Cánh Thiệp Đầu Xuân của
Lê Dinh. Và mệt quá, ngủ thiếp lúc nào không hay.
Những mảng tối rúc rích như chuột. Gián bu nâu mặt bàn. Và
gió nhiều. Gió mang tiếng dế nỉ non đi khắp nơi. Gió làm cây cối ngả nghiêng,
thậm thà thậm thụt, lấp ló. Những cặp tình nhân lén lút, buồn bã. Những tên ăn
trộm không gặp vận hẹn gặp nhau sau hè, uống rượu, văng tục. Thì nó hiện ra.
Trông quen quen, nhưng sao lại mù, mà tay thì cầm dao nhọn. Mình bị nó đuổi ra
khỏi nhà, và đẩy vào một căn phòng nhỏ lạ hoắc qua cánh cửa rệu rạo. Cửa bỗng
đóng kín, nó bên ngoài, nhốt mình bên trong. Thử mở, chặt quá, không mở được.
Những chấm đỏ của mấy cây nhang leo lét từ bàn thờ ông Địa nằm
ở góc phòng. Tiếng khóc trẻ con văng vẳng đâu đây. Lại nó, chẳng hiểu nó vào
lúc nào. Nó đánh hơi như chó, lừ lừ tiến tới, tay cầm dao. Định giết người hả?
Tháo chiếc dép ném, xem thử nó có thấy mà tránh hay không. Hay vẫn mù? Dép chưa
tới đích đã hết đà rơi xuống đất trong khi con dao của nó chỉa ra đằng trước
đâm đâm vào khoảng trống. Mình nín thở mong nó không đánh hơi ra mình, rồi nhón
chân đi men theo vách tường lần lần từng bước. Nó quay đầu nghe ngóng, một tay
sờ sẫm vách tường, tay kia quơ con dao. Đau. Ô, mình bị trúng? Sao tự nhiên đứng
gần nó quá thế, như cái kim bị nam châm hút, thì sẵn có cái búa trong tay, lại
tự nhiên cây búa nằm trong tay lúc nào chả biết, thử nện mạnh một cái vào vai
nó. Búa tuột tay rơi xuống sàn nhà. Tiếng búa chạm đất nghe rầm một tiếng như
tiếng trống.
Anh choàng thức, mồ hôi lạnh ướt đầm cả người. Đó là tiếng
trống nhịp mạnh của nhịp “ba bốn”, và bài hát là bài Thuyền Mơ của Dương Thiệu
Tước. Êm đềm, xa xôi, thơ mộng:
Làng ai bên dòng sông vắng
Kề bên núi lam miền Trường Sơn
Dưới ánh điện mờ mờ, chị vẫn còn ngồi chăm chú thêu, bóng chị
lung lay in lên vách. Anh nhận ra cả bàn tay hơi gầy, ngón út chìa ra, thỉnh
thoảng đưa lên đưa xuống cây kim. Rồi cánh tay trần. Anh thích nhìn cái nách của
chị từ đằng sau. Anh ngẩn ngơ ngắm chị cả người lẫn bóng di động khi nhanh khi
chậm. Bản Thuyền Mơ tiếp tục ngân nga. Ai hát nhỉ, chắc là Minh Trang.
Cô này mà hát nhạc Dương Thiệu Tước thì là ... thì là ... Anh lười biếng tìm chữ.
Cơn ngủ từ từ trở lại như đám mây trôi lờ đờ trên bầu trời xám đen rồi che khuất
mảnh trăng khuyết. Bầu trời đen hơn. Và anh, hai mắt nhắm trít, vẫn còn lơ mơ
nghe khúc hát tiếng được tiếng mất:
Bến sông ... tiêu ... gì nhỉ ... Thuyền xa ... ai nhớ ...
gì gì nhỉ ...
Lại nó. Trông nó chậm chạp hơn, mập hơn. Con dao đâu rồi?
Trong tay nó là cái gì vậy? Anh giữ một khoảng cách e dè nhìn nó. Tiếng ho khẽ,
anh nghe rõ, từ chị vợ. Lạ quá, chị nhìn anh như nhìn cái bàn, cái ghế, cái lò,
nói lầm bầm những gì anh không nghe rõ. Anh cố giướng mắt nhìn lại chị, thấy lờ
mờ, chị vẫn còn ngồi thêu xeo xéo dưới ánh đèn. Bóng đèn khuya lạ quá, vàng
khè, bệnh hoạn. Anh nghe tiếng mèo gào từ một nơi xa nào, rất ma quái. Thế ra
mình vừa thức vừa ngủ? Có lẽ đã khuya lắm, hay gần sáng? Anh cố gọi chị, giọng
ú ớ không ra khỏi miệng. Bỗng tiếng gì rù rì bên tai, anh nhận ra tiếng máy cassette.
Một bài hát mới khe khẽ ngân lên, bài đó mình biết, và giọng hát nghe quen thuộc
quá:
Rồi mai có một lần tôi đưa em
Về trên đỉnh yên bình hiền hòa
Nốt nhạc thấp, thì tiếng hát nghe hơi khàn khàn, chứ không
rè rè mệt nhọc như giọng Juliette Gréco hiện sinh Sartre trắng đêm Paris ánh
đèn màu. Tiếng hát này không phải thế như có người so sánh. Nó có khác nào cô gái
mới lớn vừa qua cơn bệnh nhẹ, một chút uể oải, một chút đau đớn, một chút lơ
đãng. Rồi cao dần, cao dần, lung linh, bềnh bồng, lâng lâng. A, Khánh Ly:
Một mùa xuân lên cao
Hôn lên làn tóc xõa
Theo mây trôi bềnh bồng
Thế ư. Thế là đã dìu nhau lên tới đỉnh bình yên rồi chăng, đỉnh
hạnh phúc rồi chăng, hỡi người làm ra bài hát. Trí óc của anh sáng ra dần dần.
Đúng, Từ Công Phụng là tác giả. Và anh chàng mù cũng có vẻ muốn nghe nhạc,
nhưng tay vẫn không buông con dao nhọn. Tóc nó lòa xòa rủ xuống vai, mặt mày
méo mó, dị dạng, bước đi nặng nề. Kệ nó, đừng bận tâm vì nó nữa, được không?
Anh bỗng chợt thấy, ô hay, nhạc sỹ ơi, quả là nhạc sỹ chưa có cái diễm phúc đó.
Cái câu chuyện đó đã xẩy ra đâu. Chỉ là mong ước, hy vọng, hứa hẹn. Rồi mai
mà. Rồi mai mới sẽ có được một lần. Nhưng nhạc sỹ vô tình hay cố ý bỏ đi chữ “sẽ”.
Cũng có thể trong quá khứ, nhạc sỹ đã chạm được hạnh phúc,
và mong muốn những ngày vui sống mãi, tuổi thơ không bao giờ phai, mùa xuân
không bao giờ dứt. Rồi mai, rồi mai...Hãy ôm trọn, ôm trọn tuổi xuân. Nhưng liệu
sở nguyện đó có trở thành sự thật, không phải chỉ riêng cho tác giả, mà chung
cho cả con người trên thế gian đầy đau khổ này. Cho nên, lẫn trong âm thanh dìu
dặt, lời ca êm đềm, có tiếng thở dài rất nhẹ nhưng cũng rất ảo não:
Rồi mai có một lần tôi đưa em
Đưa em về miền nắng ấm
Những con chim thôi ngủ sau mùa đông lạnh căm
Giọng người ca sỹ, Khánh Ly, lên cao như cánh diều gặp gió.
Lên cao nữa đi. Như cụm mây trắng lồng lộng trên bầu trời xanh. Như cánh hạc
vút tận trời. Cao mà không chua lét, không khét rẹt. Cao trong veo. Và âm thanh
tròn như hạt móc đậu trong ngọn lá hoa súng trên mặt hồ một buổi sáng sương
mù.
Anh cố cựa mình. Không bị trói, không bị đè, nhưng anh không
thể nào vùng dậy được. Tai thì vẫn nghe rõ mà mắt thì nhòe nhoẹt. Có ánh đèn,
thấy lờ mờ khung vải, kim thêu, thấy chị luôn tay không biết mỏi. Nghe được cả
tiếng cười của đứa con gái út. Nó cười trong giấc ngủ như vẫn thường cười, anh
nhớ.
Tiếng hát, lời và nhạc, cứ thế vang vang dìu dặt, khi thủ thỉ,
vỗ về, lúc réo rắc, xao xuyến. Nó đi vào tận đáy lòng, nó xoáy sâu vào trái
tim:
Trên đỉnh yên bình
Một mùa xuân ôm kín khung trời
Của tuổi thơ thôi rã thôi rời
Anh cố mở to mắt, khó khăn quá, thấy chấp chới bóng đèn
vàng. Anh cố nói một lời, vẫn không thể thành tiếng. Thở thì nghẹt. Ruột thì quặn.
Tim thì thắt. Anh gần như tuyệt vọng, muốn gào, muốn thét, muốn vùng vẫy, muốn
nhận một nhát dao của thằng mù. Nhẹ thôi nhé. Và đâm vào đâu nhỉ? Và anh sẽ
thoát chết chăng?
Tiếng hát bỗng như hơi gió lướt nhẹ trên mặt hồ im. Như van
vỉ, như an ủi. Anh buông tiếng thở, và biết thế là tai qua nạn khỏi:
Có một lần vui thôi em
Đừng cho chết hương tình ngọt ngào
Anh vụt tỉnh giấc. Chị đã đứng bên giường từ bao giờ, cúi xuống
gần anh.
4/2019
Ngự
Thuyết