1.
Căn nhà nằm lưng chừng núi, nhìn xuống lòng thung lũng thấp. Chung quanh là
những cụm rừng thưa, chạy dài theo dãy núi Smocky Mountain hình vòng cung. Dân
số cả thị trấn miền núi không quá một ngàn người. Hai trạm xăng, một siêu thị
loại bỏ túi và vài ba quán ăn lụp xụp của người da đỏ. Đi bác sĩ, khám bệnh
phải lái xe hơn cả giờ mới xuống tới thành phố Asheville của bang North
Carolina. Nhà cửa đất đai rất rẻ và không khí trong lành quanh năm. Phần lớn
dân chúng trong vùng sống nhờ lượng du khách của mùa hè, và nhất là mùa thu.
Trung dọn hẳn lên căn nhà mướn nầy vào cuối mùa hạ. Những cơn nắng dội lửa đã
giảm dần, nhường cho vài cơn mưa bụi loáng thoáng, bất ngờ. Buổi sáng Trung
bàng hoàng trước vẽ đẹp của núi rừng phủ kín trong lớp mây mù dưới chân núi.
Khí trời chợt chùng lạnh, se sắt mù sương đủ để khu rừng thưa khẻ chuyển mình
thay lá. Những chiếc lá xanh nâu đã cong mình vàng lên sắc đỏ.
Mùi thảm hăng hắt và ẩm thấp, chứng tỏ căn nhà đã vắng hơi người từ lâu. Nipa
muốn ở lại lau chùi, dọn dẹp nhưng Trung bảo không cần. Ông có nhiều thời gian
để bận rộn. Người y tá chìu ý ông Trung nhưng vẫn sắp xếp những thứ cần thiết
trong tủ lạnh và nhà bếp. Nàng cũng không quên ghi chú cẩn thận số lượng thuốc
men của ông trên đầu giường ngủ. Chuyến đi dài không làm Trung mệt mỏi, trái
lại, ông thấy mình tỉnh táo và phấn khởi hẳn lên. Ít nhất ông cũng có những
chuỗi ngày trước mặt thong dong, tự tại trong cảnh thiên nhiên của núi rừng.
Một mình, niềm cô đơn sẽ lớn hơn. Nhưng trong cùng tận cô đơn, ông sẽ có dịp
đối diện với chính mình nhiều và thành thật hơn. Đến lúc mà mọi sự hiện diện
của tha nhân đều tạo cho ông niềm sợ hãi thực tại.
Nipa, cô y tá người Phi-líp-pin có khuôn mặt và nụ cười thật trẻ con. Bệnh
viện đã cử cô đến chỉ dẫn cách tự chích thuốc cần đau và theo dõi bệnh tình của
ông sau khi rời viện. Lúc đầu Nipa rất dè dặt trước thái độ buông xuôi, chờ
chết của ông. Cô chỉ giúp ông thành thạo việc tự chính giảm đau chớ không tỏ ra
thân thiện với bệnh nhân. Vài tuần lễ sau đó, một lần Thảo dẫn con đến thăm,
Nipa mới có dịp hiểu sự lựa chọn đầy nghị lực của ông Trung. Cô đã ứa nước mắt
trước cảnh chia tay, tưởng như tạm bợ bề ngoài mà đã nghìn trùng xa cách tận
tâm. Ông cô đơn trong hạnh phúc. Ông chờ đợi cái chết bình thản như chờ một
chuyến đâu đó đi xa. Con người rất can đảm trong lời nói, rất sâu sắc với bao
nhiêu triết lý cao xa. Nhưng khi đối diện với hiện thực hy sinh có máu, bằng
mạng sống chính bản thân thì họ lại có nhiều phương tiện để biện minh cho hành
động yếu hèn… Nên đứng trước người đàn ông như yếu đuối, vô tư nhưng Nipa thấy
cả dòng biển ngầm mạnh mẽ. Có khi một vũng nước trong nhìn tận đáy, lại nhận
chìm những kẻ vô tình. Lắm lúc vũng nước như đục ngầu đe dọa, lại không qua
khỏi mắt cá đôi bàn chân… Họ trở thành đôi bạn, giữa làn ranh cận kề sinh tử…
Đến một hôm Trung nhờ Nipa giúp ông tìm mướn căn nhà nhỏ, rẽ tiền trên vùng
núi. Càng cao, càng sâu vào rừng núi càng tốt. Ông thao thao nói với cô y tá
cách chữa bệnh ung thư thiên nhiên của người Nhật. Không thuyết phục, nhưng
Nipa hứa giúp ông tìm nhà. Vã lại cũng vào thu, cảnh núi rừng lá chuyển, biết
đâu tái tạo cho ông mần sống mới.
Nipa đặt chiếc xe lăn và cây gậy cuối góc nhà rồi chuẩn bị từ giả Trung. Ông
ngập ngừng cám ơn. Nipa chần chừ, không nở. Trong ánh mắt của người đàn bà tràn
đầy niềm cảm thương, nuối tiếc. Tất cả rồi cũng qua, một lần gặp gỡ. Như kiếp
người, thoáng chốc mà hệ lụy cưu mang tưởng chừng bất tận. Bắt đầu đã khó, chấm
dứt cũng không phải dễ dàng. Nipa nhìn quanh, nhiều lần, căn nhà gỗ đơn độc
giữa lưng chừng núi. Nàng đến như cơn gió lướt qua đời ông, không dừng lại.
Niềm hy vọng cuối cùng một đời người chính là sự trở về, trở về với chính mình
trên dòng sông bản ngã. Chạm đáy đời ông, Nipa như bắt gặp đời mình. Khác biệt
góc thời gian, soi cùng đời mặt phẳng. Nàng đã không giữ được lời hứa, mặc cho
giòng nước mắt rơi thấm mặn khóe môi khô. Người đàn bà Phi-líp-pin quay nhìn
căn nhà lần cuối, trước khi ngược xuống lòng đường. Đầu mùa thu, buổi trưa miền
núi ngây ngất như ly rượu mạnh.
… Sau vài tháng hóa trị (chemo-therapy), Trung quyết định không tiếp tục
nữa. Lần cuối cùng khám bệnh, bác sĩ đã cho ông biết:
– Tiếp tục điều trị tại bệnh viện và chemo-therapy, ông có thể kéo dài sự
sống từ một đến hai năm. Nếu khước từ, chúng tôi không dám đảm bảo cho sinh
mạng ông trong vòng sáu tháng. Mong ông suy nghĩ thật kỷ lưỡng. Tuy nhiên mọi
sự quyết định đều tùy vào ông và gia đình.
Ông biết rõ số phận của mình. Hơn nữa, sự tàn phá những tế bào sống trong cơ
thể khiến những ngày còn lại của ông sẽ tệ hại hơn. Ông muốn mình phải thật
sáng suốt và tỉnh táo cho mọi chuẩn bị, mọi sự lựa chọn cần thiết. Thảo đã đưa
mấy đứa nhỏ về sống với gia đình ở Dallas. Trẻ con nhiều nước mắt nhưng cũng dễ
lãng quên. Mười bốn năm chung sống vợ chồng, chia nhau từng tháng ngày khổ đau,
hạnh phút. Tình yêu ông với Thảo lớn hơn sự hèn nhát và lòng ích kỷ. Nàng và
các con ông còn phải sống, cho hôm nay, cho ngày mai. Có chăng với ông, là từng
ngày cuộn trôi gần cái chết. Mấy tháng qua, Thảo đã khóc cạn một đời nước mắt.
Ông không để chứng bệnh ung thư giết chết ông và dần mòn giết chết niềm tin và
hy vọng ngày mai của những người ông thương yêu hết mực. Tất cả những đau đớn
dù lớn lao đến đâu, rồi cũng qua đi. Thời gian trôi xuôi giữa dòng đời không
trở lại. Tình yêu Thảo và các con lớn hơn sự hèn nhát và lòng ích kỷ. Với
Trung, tiền bạc không mua được hạnh phúc và niềm hy vọng. Nhưng tương lai của
gia đình và các con ông không thể lệ thuộc nỗi đau và cái chết dần mòn của ông.
Thôi thì một lần chia ly còn hơn những ám ảnh truyền kiếp.
Tất cả cuộc ly dị đều bắt đầu và kết thúc bởi những thất vọng và oán hận.
Trừ trường hợp của ông và Thảo. Cuộc chia tay, dù trên pháp lý, của họ bắt đầu
bằng những yêu thương và lòng hy sinh vô bờ. Của ông. Của Thảo. Của các con.
Nước mắt họ không chảy xuôi theo giòng đời thường tục. Những giòng nước mắt của
họ chảy ngược vào tận cùng giòng đời hệ lụy cưu mang. Số tiền quá lớn cho sự
dằng co với cái chết, rồi cũng phải đến, đủ đem lại cho người sống một mai nầy
tốt đẹp. Cuối cùng rồi Thảo cũng hiểu. Trong cùng tận của đời người, cái chết
không phải là sự chia lìa vĩnh viễn. Mà chính cuộc sống vạch ra nhiều đường
ranh của biệt ly. Cánh cửa mở rộng cho mọi nghịch cảnh, là cõi vĩnh hằng phía
bên kia. Sông có chảy trăm giòng cũng xuôi về biển mặn. Không ai đứng trước
biển xanh mơ về con lạch nhỏ bao giờ. Trong nỗi đau cùng tận, ông vẫn ước mơ
một ngày nào đó Thảo sẽ tìm thấy hạnh phúc. Một hạnh phúc có thật cho nàng. Như
đời nầy, con người không chỉ đến để chết mà để chiêm nghiệm hạnh phúc trong cái
chết vĩnh hằng.
2.
Ông choàng tỉnh trong tiếng hút vang vọng rừng núi. Tiếng hút hãi hùng, tuyệt
vọng. Trong giấc mơ ông hay ngoài kia thăm thẳm núi rừng. Ông cố nhớ lại, nhưng
tất cả chỉ là khoảng trống của tiềm thức miên man. Đầu hôm Trung đã uống hai
thuốc ngủ. Nằm nghiêng tai, ông lắng nghe từng tiếng động thênh thang của đêm.
Một con sói gọi đàn hay của một đàn thú nào đó vang tiếng thách thức nhau.
Tiếng hú phải mang một cường độ ghê gớm, đẩy mất hiệu nghiệm của hai viên thuốc
ngủ cực mạnh. Con số màu đỏ thẩm trên mặt bàn, hai giờ sáng. Ông chợt cảm thấy
cơn lạnh chạy khắp cơ thể. Hay là tiếng hú vọng từ cõi ” âm “, của thế giới bên
kia. Nhắm chặc mắt, ông thở ra hít vào nhiều lần, ngầm kiểm soát toàn bộ cơ
thể. Tất cả đều bình thường, không có triệu chứng gì của cơn bạo bệnh. Cái chết
vẫn còn xa ông, ít nhất là đêm nay. Ngày mai rồi sẽ tốt đẹp hơn, cứ tin như
vậy, ông xoay trở tìm một thế nằm thoải mái, chờ giấc ngủ…. Tiếng hú lại vang
lên, thiết tha, đau đớn. Tiếng hú vang vọng như đánh thức cả thung lũng thấp.
Ông ngồi bật dậy, khoắc chiếc áo choàng và bước ra ngoài. Ánh trăng sáng lạnh,
soi dọc con đường mòn dẫn xuống dốc núi.
Có tiếng người, cười nói phía dưới con suối nhỏ. Ông nghĩ đến những nàng
tiên xuống tắm suối đêm trăng trong truyện thần thoại, cổ tích. Cuộc sống giết
chết trong ông bao nhiêu ước vọng, gần kề cái chết lại mở bao nhiêu cánh cửa
tin yêu trong mỗi giấc mơ. Khoảng đất và trời. Mặt thật và giả. Giữa thực và
ảo. Chỉ là những cụm từ ngữ nói lên sự bất lực của con người và kiếp sống. Ông
dò dẫm những bước chân, giữ gìn từng hơi thở. Ánh trăng sánh bạc, phả lớp mù
sương phủ kín rừng. Tiếng cười nói bỗng lặng im, chìm khuất. Rồi từng tiếng nấc
khẻ vang. Ngậm ngùi, trẻ dại.
Không biết tự bao giờ ông đã đứng đối diện với chiếc bóng đang khóc cười,
nhảy múa. Dưới trăng là khuôn mặt tuyệt đẹp của người con gái với mái tóc dài
óng ả. Nàng chợt quay lại nhìn ông, không chút ngạc nhiên, sợ hãi. Chừng như đã
quen, đã biết từ lâu.
– Sao ông đến muộn vậy? Em đã chờ đợi nơi nầy quá nhiều năm tháng… Người con
gái vừa nói vừa di động theo cùng những vệt sáng tủa vây.
– Cô đã đợi tôi..? Tại sao cô biết tôi sẽ đến nơi nầy?
– Phải. Bất cứ điều gì, nếu ông chờ đợi, rồi nó sẽ tới… Như em đợi ánh
trăng. Có lúc tưởng nó đi mất. Em cứ đợi, rồi ánh trăng cũng đến.
– Nhưng nếu cô không đợi, trăng cũng tới mỗi tháng kia mà…
– Ông lầm rồi. Biết bao nhiêu người không hề biết trăng về mỗi bận. Chỉ có
những người chờ đợi như em thôi… Như em chờ và ông cũng đã đến.
– Không. Nhất định là tôi không đến đây vì sự chờ đợi của cô. Tôi đến đây
bởi sự chờ đợi của cái chết.
– Thì hẳn vậy đi. Em là cái chết của ông. Đã sao đâu? Con người đến cuộc đời
nầy chỉ để chờ đợi cái chết kia mà… Thôi, đêm sắp tàn, đến ngồi xuống đây với
em.
Nàng nắm tay ông, ngồi xuống bờ đá. Mùi hương con gái thoang thoảng, ngây
ngất mọi xúc giác của ông. Tự lúc nào, toàn thân ông như căng tràn sự sống.
Những cảm giác sượng đau ông cưu mang bấy lâu nay chợt tan biến. Tất cả nhẹ
tênh, mênh mông nỗi hạnh phúc không cùng. Phiến đá ấm áp sương đêm như bàn tay
ông đang ấm áp trong lòng tay con gái. Ông chợt nhận ra toàn thân nàng chỉ phủ
một lớp vải mong manh tơ trời mờ nhạt. Ngả đầu vào vai, ông nghe từng hơi thở
nhẹ thơm của nàng phả vào bên má. Chung quanh họ, chỉ còn thế giới của trăng.
Người con gái nằm ngữa mặt trên hai chân ông dựa theo bờ đá. Con suối đêm
mùa thu chở ngập đầy một dòng trăng. Cũng từ đó, mỗi đêm ông đều cùng người con
gái gặp nhau dưới bờ thung lũng thấp. Có lúc họ chuyện trò. Lắm khi họ lặng im,
chừng để lắng nghe sự giao hòa của tâm hồn con người và đất trời huyền diệu.
Ông không biết mình đang sống trong giấc mộng, hay chính giấc mơ ông đang trở
thành hiện thực đời mình. Tự hỏi. Hoài nghi. Sợ hãi. Đôi lúc ông luôn mở trừng
đôi mắt, sợ một chớp mắt vô tình sẽ đánh mất những gì có thật chung quanh…
Khuôn mặt đẹp tuyệt trần người con gái như tỏa ra một lớp ánh sáng dìu dịu, mơ
hồ. Như hiểu lòng ông, áp bàn tay ông lên má, người con gái muốn ông nhận thức
sự hiện hữu có thật của mình. Tất cả lung linh, mầu nhiệm. Ông đưa tay nâng niu
khuôn mặt và vuốt từng lọn tóc óng tơ trời… Đôi mắt mở to, người con gái nhìn
ông đắm say như nhìn vào giấc mơ tiến kiếp.
– Tại sao lại có ánh trăng, lúc đi lúc về? Tại sao sông xuôi về biển, sông
đậm nâu ngọt ngào còn biển xanh mặn bao la..?
Một hôm người con gái vô tình, chợt hỏi. Trầm ngâm phút chốc, ông khẻ kể cho
nàng nghe câu chuyện tình huyền hoặc, tựa chừng ẩn khuất đâu đó trong tiềm
thức.
“… Ngày xưa, thuở trời đất giao hoà. Đêm chỉ ngàn sao lấp lánh và chưa
có mặt trăng hiện hữu. Mặt trời ngự trị toàn bộ giang sơn của hệ thái dương.
Shiva là con trai thần mặt trời. Tính tình phóng khoáng và lãng mạn, Shiva luôn
có nhiều ước vọng khác thường. Năm mười chín tuổi, tục lệ bắt Shiva phải chọn
một người con gái làm vợ. Tất cả người đẹp của xứ mặt trời không làm cho Shiva
rung động. Thần mặt trời lo lắng, còn Shiva thì ngày đêm buồn bã, u sầu. Một
hôm Shiva xin cha cho mình tự đi tìm vợ. Thần mặt trời đồng ý với hai điều
kiện. Một, không được rời khỏi xứ mặt trời. Hai, thời gian đi tìm chỉ trong
vòng ba mươi ngày. Sau đó, nếu không tìm ra, Shiva phải tuân lệnh cha lấy người
con gái do chính thần mặt trời lựa chọn. Shiva cúi đầu đồng ý.
Lang thang khắp nơi trong xứ mặt trời, Shiva chưa lần nào gặp người con
gái trong mộng. Thất vọng, nhiều đêm Shiva thao thức nhìn những dãy ngân hà lấp
lánh bao quanh. Chàng tự nhủ, biết đâu trái tim mình đang ở nơi chân trời xa
xăm đó. Quên mất lời cha dặn, Shiva rời xứ mặt trời và bay về một hành tinh
khác. Vô tình, Shiva ghé vào trái đất. Choáng ngộp trước vẻ đẹp lạ kỳ, xanh thẳm
của phần đất nầy, Shiva quyết định ở lại để tìm người con gái trong giấc mộng.
Không phải tìm lâu, Shiva yêu tha thiết ngay người con gái đầu tiên gặp
mặt bên bờ con suối nhỏ. Thùy Dương, tên nàng. Shiva say đắm với mối tình Thùy
Dương quên hẳn lời cha dặn. Ba mươi ngày lướt qua thoáng chốc. Sứ giả của thần
mặt trời tìm kiếm Shiva khắp cả chân mây góc trời. Cuối cùng, họ vời được Shiva
trở về. Trước mặt cha, Shiva xin được cưới Thùy Dương làm vợ. Thần mặt lắc đầu
và nhắc lại điều kiện đặt ra. Shiva không được rời khỏi xứ mặt trời, vì chàng
không thể cưới làm vợ bất cứ người con gái nào ngoài xứ mặt trời. Shiva hỏi,
tại sao. “Con là mặt trời chỉ sống với sinh thể mặt trời. Những sinh thể của
các hành tinh khác không thể cùng tác hợp”, thần mặt trời trả lời.
Tuyệt vọng và buồn chán, Shiva đã chết trong mối tình thiên thu đó. Hồn
u uất không tan, kết đọng thành một vầng sáng vằng vặc, suốt đời ôm trọn lấy
trái đất nầy. Con người gọi vầng sáng đó là mặt trăng.
Nơi trái đất, Thùy Dương chờ đợi người yêu đến héo mòn hương sắc. Thùy
Dương đã khóc, khóc mãi đến cạn khô nguồn nước mắt. Mãi đến lúc vầng trăng
chiếu sáng trần ai thì nàng gục chết bên bờ suối ngày xưa gặp gỡ. Người đời
truyền tụng, nước mắt của Thùy Dương đã nhuộm xanh và thấm mặn mọi mặt biển thế
gian… “.
– Chuyện tình thần thoại thật tuyệt vời và thật đẹp, phải không ông?
Thật là tuyệt vời và đẹp. Chính ông cũng không ngờ mình ” bịa ” ra câu
chuyện thần thoại lãng mạn đến như vậy? Hơn nữa, bổng dưng khả năng Anh ngữ của
ông hôm nay vượt ra ngoài chính sự tưởng tượng của mình. Bình thường ông nói
tiếng Anh thuộc loại ” ăn đong “, lắm khi cô y tá người Nipa phải gặn đi gạn
lại nhiều lần mới hiểu nổi ông nói gì! Hưng phấn, thừa thắng xông lên, ông tâm
sự.
– Phải. Tôi tin rằng mọi sự hiện hữu trên thế gian nầy đều bắt đầu từ một
chuyện tình. Nói chi đến con người và các sinh vật, mà ngay cả sỏi đá vô tri.
Một nhạc sĩ nước tôi đã nói, “… ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau! “. (1)
– Tại sao vậy ông?
– Vì mọi sự vật đều là hóa thân của nhau. “Em là tôi và tôi cũng là tôi…”
(2).
– Ông càng giải nghĩa, em lại càng khó hiểu. Mà cần hiểu làm gì, có ai đang
yêu lại phân tích và định nghĩa tình yêu? Ông hãy hôn môi em, tình yêu sẽ lên
tiếng.
Người con gái nghiêng mặt, hiến dâng. Ông cúi xuống, hôn lên đôi môi óng
vàng, mật ngọt. Niềm lạc hoan mảnh liệt tràn vào thân thể, nâng cao vút mọi xúc
cảm cùng tận trong ông. Mọi nỗi đau tan biến. Mọi cái chết chìm sâu. Chỉ còn
lại thực tại là niềm hạnh phúc mơ hồ, chất ngất. Ông chợt thấy ánh trăng hạ
xuống thấp dần. Thật thấp, chiếu vàng rực rỡ khuôn mặt ông và thân thể người
con gái. Muôn vàn mạch máu cuộn tràn, ông như nhập vào ánh trăng rồi vút cao
lên bầu trời bát ngát. Người con gái chợt cong người hú lên. Tiếng hú vang vọng
khắp cả kiếp người. Ông cũng nghiêng người nhìn lại bóng mình. Chiếc bóng rời
khỏi ông, vươn cao, rồi cũng hú vang niềm hạnh phúc mông lung. Hai tiếng hú
quyện vào nhau, cuốn hút núi rừng trong giấc mơ truyền kiếp ngàn đời.
Ông cúi xuống đặt thân thể người con gái lên trên bờ đá, cạnh bờ suối nhỏ.
Hơi thở ra từng hồi nhè nhẹ, đứt khoảng nàng mở trừng đôi mắt thật to nhìn ông,
môi mấp máp. Ông cố nghiêng tai thật sát, lắng nghe. Chừng như chỉ là những lời
vô nghĩa. Ông ôm chặc cơ thể nàng mong chuyền sang hết sự sống. Tại sao không
phải là ông, người mãi đợi chờ cái chết. Mà lại là nàng, người con gái của giấc
mơ ông, thu mùa tâm tưởng. Buổi chiều hình như lá rụng nhiều hơn trên mấy lối
mòn xuống suối. Đã cuối mùa thu rồi thần thoại mối tình ông. Không hiểu sao,
dưới những đêm trăng, khuôn mặt người con gái đôi lúc mang nhiều đường nét của
Thảo. Rồi nhạt mờ đâu đó bóng dáng của biết bao người con gái đã qua đời ông.
Họ vẫn quanh đây trong dáng hình hiện tại. Tất cả bàng hoàng, nuối tiếc. Như
không hiểu từ tiền kiếp nào đưa ông về khu rừng thu lũng thấp mờ sương nầy.
Trong tận cùng sự sống, ông hiểu nghĩa chia ly nghiệt ngã vô cùng cho người ở
lại. Đứng trước cái chết, ông thấy thăm thẳm hơn ý nghĩa tình yêu của sự ra đi…
Ông cúi hôn lên đôi môi lạnh giá, ơ hờ. Nàng đã ra đi như ông rồi cũng tới. Như
tình yêu, không có điểm bắt đầu và không có nơi chấm dứt… Ông đứng lên cất
tiếng hú đớn đau, như đánh thức cả núi rừng. Ánh trăng cuối thu vằng vặc, đâu
đây tiếng hát ai như ru giấc ngủ yên một kiếp người.
“… Mang ơn em trao tình một lần, là kỷ niệm dù không đầm ấm
Mang ơn em đau khổ thật đầy, là nắng vàng dù nhốt trong mây
Mang ơn trên cho cuộc đời ta, vài vạn ngày gió cuồng mưa lũ
Trong cơn đau một vùng hương khói, kéo ta về, về cõi hư vô…” (3)
3.
Nipa ngạc nhiên khi thấy mấy ống thuốc cầm đau còn nhiều trên kệ. Thường khi
chỉ còn vài lọ cuối cùng. Ông Trung có thể không sợ chết, nhưng ông cần chống
lại những cơn đau. Hơn ai hết, Nipa hiểu rõ điều nầy. Hay là ông đã cạn rồi sự
phản kháng, đã quyết định bước cùng… Căn nhà vắng lặng. Nipa nhìn quanh, chiếc
gậy vẫn ở góc giường và tách trà trên bàn chưa uống cạn. Nắm hồ sơ bệnh lý và
chăm sóc ông thời gian qua, Nipa hiểu từng chuyển biến của cơ thể ông. Dù có
một nghị lực phi thường đi nữa, ông Trung cũng không thể vượt ra ngoài những
tàn phá của chứng ung-thư nầy. Nói chi ông đang ở trong thời kỳ cuối cùng. Bao
giờ đi ra khỏi nhà ông đều mang hờ theo cây gậy, phòng những cơn đau tấn công
bất ngờ. Nipa chợt nhận ra tờ giấy nhỏ dán trên tủ lạnh, với giòng chữ của ông:
” Tôi tập yoga và thiền, con suối dưới thung lũng. Trung “.
Buổi trưa mùa thu, khí trời tĩnh mịch và nhẹ tênh. Nipa bàng hoàng với vẻ đẹp
của rừng núi. Thung lủng thấp như được phủ tấm vãi tơ lụa màu đỏ, tím và vàng
sặc sỡ. Như bức tranh vẽ trong truyện cổ tích mà cô đã đọc say sưa thuở ấu thơ.
Bây giờ trước mặt là cả một tặng phẩm tuyệt vời của tạo hóa có thật. Nipa như
nhận ra được sự mất mát to lớn của đời sống xã hội và ý thức thiên nhiên chung
quanh. Con người không những đã tự hủy tâm cảnh mà ngay cả hiện thực bên ngoài.
Giá trị thẩm mỹ nhường chỗ cho giá trị kỹ thuật và tiện nghi. Con người xa lạ
dần với thiên nhiên và lệ thuộc vào ảo giác. Tính thích nghi cũng từ đó mất
dần, sự phản kháng cơ thể dựa vào trợ lực hoá chất của dược phẩm. Từ cỏ hoa,
thảo mộc, Nipa đã tận mắt nhìn thấy những điều đó xảy ra cho bệnh nhân do chính
cô chăm sóc.
Từ thận chứng di-căn của ông Trung đã chuyển đến cả gan và phổi. Cái chết,
với ông, chỉ còn là phút chốc thời gian. Điều đó không làm cho Nipa ái ngại,
cảm thương. Con người rồi ai cũng một lần chết, như thể một lần sinh ra đến với
đời nầy. Đôi khi cái chết lại là một giải thoát hoàn mỹ nhất của đời người. Cho
ông. Cho Nipa. Cho cả kiếp người vay tạm… Nhưng là những cơn đau, những cơn đau
khủng khiếp cho thân thể sống trong chờ sự chấm dứt, ra đi. Những cơn đau mà
mọi con người không đủ sức chống trả. Sự hiện diện của cô là chỉ nhằm giúp ông
vượt qua những giây phút hãi hùng nầy. Nipa tin vào nghị lực và lòng can đảm
cho mọi hành động của ông đối với gia đình, vợ con. Nhưng còn ông, ông không
thể dùng thứ nghị lực đó chống lại những cơn đau nghiệt ngã để sớm chấm dứt một
kiếp người. Không nói, nhưng cả Nipa và ông điều biết phương pháp chích không
khí vào mạch máu. Như một giải pháp cuối cùng. Điều nầy ám ảnh Nipa nhiều hơn
khi nhìn thấy những ống thuốc cầm đau còn nguyên nhiều trên kệ.
Cuối đường mòn, gần con suối trong thung lũng thấp, Nipa hốt hoảng, mở trừng
đôi mắt khi thấy xác người đàn ông nằm trên ghềnh đá tảng. Mắt nhắm nghiền, ông
Trung như đang trong giấc ngủ thật tĩnh lặng, bình yên. Không biết ông đã nằm
đây bao lâu, nhưng Nipa không nhìn thấy dấu vết chống chỏi nào cho sự đau đớn
thể chất. Cơ thể ông Trung đã lạnh cứng. ” Ông Trung. Ông Trung, tôi đây. Nipa
đây mà..! “, cô y tá lẩm bẩm gọi tên trong dàn dụa nước mắt. Tất cả cũng đã
đến, một kiếp người như thể dưng không. Núi rừng mùa thu vẫn rực rỡ sắc màu,
hanh hanh màu nắng nhẹ tênh. Nipa bấm số điện thoại di động: “911”.
4.
Một cột tin nhỏ trên trang nhất của tờ báo địa phương – Một Hiện Tượng Y -Học
Khó Giải Thích: “Asheville, North Carolina – Sáng hôm qua, người ta tìm thấy
xác người đàn ông nằm trên vực đá, dưới một thung lũng của dãy Great Smokey
Mountain. Được biết nạn nhân mang chứng bệnh ung-thư trong thời kỳ cuối, từ
chối mọi chửa trị của bệnh viện để chờ đợi cái chết. Điều gây sôi nổi trong dư
luận là, sau khi thử nghiệm xác nạn nhân, các bác sĩ và bệnh viện không tìm
được dấu vết nào của chứng bệnh ung-thư hiểm nghèo đã giết chết ông. Kết luận
của nhóm khảo nghiệm, nạn nhân chết vì kiệt sức, không ăn uống trong nhiều ngày
đêm bên bờ đá tảng.
Hiện nay hội đồng y khoa Hoa Kỳ đang thương lượng với gia đình và thân nhân
nạn nhân để phân chất các nhiễm thể của ông mong sẽ tìm ra được nguyên nhân
trên. Đây là một hiện tượng y học đầu tiên có thể sẽ làm thay đổi tận gốc rễ
các lý thuyết chửa trị chứng ung-thư của con người. Chúng tôi hứa sẽ theo dõi
thường xuyên và đưa những tin tức mới nhất cho cuộc thử nghiệm lịch sữ nầy đến
với bạn đọc! “.
Durham, North Carolina
Nguyễn Vĩnh Long
(1), (2): Diễm Xưa & Tôi Ơi, Đừng Tuyệt Vọng – Trịnh Công Sơn
(3): Tưởng Niệm – Trầm Tử Thiêng