Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà
Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau
bữa ăn trễ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa
tôi mới có hẹn với bà xã và mấy đứa cháu ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi
dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm. Bà xã thì trưa nay
đã theo mấy đứa cháu gái đi “làm đẹp”: làm tóc gội đầu, móng tay và cả massage.Nghe nói những loại dịch vụ này gần đây rất phổ biến và giá cả rất “mềm”, các
bà tha hồ mà chăm sóc mặt mày, tóc da. Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ
dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật
khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo
Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa
là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh
quanh sông và có cả chương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước.
Bến nước Ninh Kiều còn có một đội ngũ đò máy cho khách du lịch thăm viếng chợ
nổi Cái Răng, những khu sinh thái nhà vườn và các cù lao, cồn vùng lân cận…
Trong tiếng động của nhịp sống chung quanh tôi thấy thật gần gũi, quen thuộc
nhưng cũng có chút gì đó ngập ngừng, bỡ ngỡ. Trên đường ồn ào xe máy, dưới sông
rộn ràng ghe đò tạo khu công viên bến Ninh Kiều mang hình ảnh đặc trưng của một
thành phố đô thị miền Tây.
Loáng thoáng đã gần bốn mươi năm, tôi trở lại nơi này. Trưa ngày mùng bốn Tết
năm 1978 là lần đầu tiên tôi ghé Tây đô. Mùi hương khói tỏa, màu vàng của những
chậu cúc và mai vàng vẫn còn cùng khắp những con đường. Bến đò Ninh Kiều thưa
thớt, trống vắng vào mấy ngày mùng. Không khí Tết tuy trầm mặc nhưng vẫn phảng
phất đâu đó cuộc sống đời thường đang trỗi dậy chung quanh. Tìm đến bến đò đi
về thị xã Vị Thanh, mà tôi chưa hề biết. Địa chỉ đến của tôi chỉ là một lời dặn
dò. Đúng hơn là một lời hứa tưởng chừng như vu vơ, vậy mà tôi vẫn giữ. “Làm sao
để gặp lại Nguyệt?”. “Anh cứ đến bến đò Vị Thanh, Chương Thiện hỏi bất cứ ai:
nhà của cô N.H. Nguyệt. Là sẽ gặp lại em thôi”. “Anh hứa sẽ đến!”. Chỉ có vậy,
võn vẹn có vậy cho chuyến đi năm đó của tôi.
Người con gái có đôi mắt to tròn biết nói, tên N.H. Nguyệt, tôi làm quen
trên chuyến xe qua phà Mỹ Thuận. Rồi vài năm sau mới chợt nhớ và tôi đã trên
chuyến đò vượt “Mười Bốn Ngàn” kinh xáng Xà-No để tới. Một đời người có bao
nuối tiếc, để một lần tôi đánh vỡ chiếc bình thủy tinh thời gian không hàn gắn
lại được. Để rồi đêm nằm quạnh quẽ trong nhà nghỉ bên dòng kinh xáng, tôi cuộn
tròn lòng mình sâu thẵm trong đáy mắt ai một lần gặp mặt. Căn nhà có tên người
con gái tôi quen đã trở thành cửa hàng thương nghiệp. Người chung quanh cho
biết cả gia đình của N.H. Nguyệt đã ra đi hơn nửa năm qua. Gió đêm thổi từ dòng
kinh xáng thì thầm lời cảm ơn em, cám ơn đầm sen hồ thủy tạ nằm giữa thị xã Vị
Thanh cho tôi một đời thương tưởng không nguôi.
“Ông anh đi xe ôm hông?… Tui lấy giá thiệt hữu nghị…”
Tiếng mời hỏi quanh đây, kéo tôi trở về thực tại. Tôi quay lại, người đàn
ông khắc khổ đội chiếc nón vải, cười nhe cả hàng răng cái mất cái còn. Tôi chưa
kịp lắc đầu từ chối, người đàn ông nói vội:
“Cả ngày ế ẩm… ông anh đi một cuốc giúp tui nghen”.
Thật là khó đoán tuổi của người chạy xe ôm. Không trẻ hơn và cũng không quá
già hơn tuổi tôi, dù trên khuôn mặt anh in hằn nhiều vết nắng gió bụi đường.
Mấy món đồ lưu niệm để chập tối hoặc mai mua cũng còn kịp. Nhưng nhớ lời “căn
dặn” nhiều lần của bà xã, “đi đâu phải bằng taxi, nhất định không được đi xe
ôm. Rất nguy hiểm”. Nếu biết tôi liều mạng, không “nghe lời” chắc chắn là bà ấy
sẽ giam lỏng tôi suốt chuyến đi còn lại. Nhìn ánh mắt, khuôn mặt người đàn ông
chạy xe ôm, lòng tôi lại thương cảm. Thôi đành dối vợ lần này, nhưng bây giờ thì
tôi chưa biết phải đi đâu? Tôi ngập ngừng, nói thật:
“Muốn đi giúp anh… Nhưng thiệt tình tui hổng biết đi đâu?”
“À… nhìn là biết ông anh là khách du lịch. Để tui chở ông anh đi vòng quanh
Cần Thơ cho biết. Tui lấy rẻ 110 thôi”.
Mắc hay rẻ tôi nào biết, chỉ gật đầu cười. Thoáng ánh vui mừng trong mắt,
anh đưa tôi chiếc mũ bảo hiểm. Cũng như anh, chiếc xe không mới cũng không cũ.
Người và xe cứ như hai đôi bạn dạn dày mưa nắng của thời gian.
“Tui chở ông anh đi đại lộ Hòa Bình, qua tòa nhà ủy ban nhân dân tỉnh, công
viên Lưu Hữu Phước. Lòng vòng đường Lý Tự Trọng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Đình
Chiểu… rồi mình qua khu dân cư Hưng Phú, nam đô thị mới của thành phố Cần Thơ…
cho biết”.
“Dạ… Anh cứ chạy tới chỗ nào đẹp, nổi tiếng của Cần Thơ là được… Anh chạy xe
ôm lâu chưa dzậy? Vợ con, gia đình anh ở đâu?”. Tôi bắt chuyện, khi chiếc xe ôm
rời khỏi bến Ninh Kiều.
“Chạy xe ôm cũng tầm 10 năm rồi ông anh. Nhà cửa tui ở bên kia Xóm Chài. Hai
vợ chồng tui có ba đứa, hai gái một trai. Tụi nó lớn hết rồi…”
Rồi anh chuyển qua giới thiệu cảnh quang hai bên đường. Thành phố Cần Thơ
như khoắc lên người chiếc áo mới, vừa lộng lẫy lại vừa vừa lem nhem đến lạ
lùng. Những con đường chen chúc con người, xe cộ ngột ngạt mà hầu hết là thế hệ
trẻ, dưới tuổi bốn mươi. Chạy lòng vòng một lúc, khi qua khỏi công viên Lưu Hữu
Phước, hướng về ty bưu điện thì trời đang nắng bỗng lất phất mưa. Anh hỏi tôi
có cần áo mưa không, sẽ dừng lại. Tôi nói không cần, nhưng cảm thấy chừng như
anh run nhè nhẹ và sôi bụng. Anh đang đói hoặc ăn quá ít bữa trưa? Nói anh ghé
vào quán ăn nào đó dọc đường, tôi làm như mình cũng đói và tìm chút gì lót dạ.
Anh liền cho xe vào con đường nhỏ (hình như là Ngô Văn Sở) có nhiều hàng quán
dọc bên đường. Tôi mời anh vào ăn chung cho vui, có bạn.
Một dĩa cơm thịt nướng bì trứng và chén canh cải ngọt cho anh, tô bún nước
lèo cho tôi. Lúc này thì không còn e ngại nữa, anh ăn thật ngon lành. Tôi nhìn
anh rõ hơn, ốm cao và ngoài hàm răng chiếc còn chiếc mất, khuôn mặt anh rắn rỏi
đường nét. Tóc nhiều cứng dợn cao, đôi mắt sâu dù có mờ sương gió vẫn còn đó
nét sáng rạng chập chùng. Tôi nghĩ, lúc còn trẻ chắc chắn anh rất sáng sủa, đẹp
trai.
“Rồi vợ con anh làm gì? Mấy cháu có gia đình con cái gì chưa anh?”
“Vợ tui trước làm phụ nấu cho nhà hàng, lương cũng khá lắm. Có lần qua phà
vấp té, bể xương hông chậu, nay bả đi đướng khó khăn nên nghỉ làm”!
Bên ngoài trời đổ cơn mưa lớn… Anh xuất thân con nhà nghèo ở Xóm Chài,
năm lớp 10 phải nghỉ học đi làm phụ giúp gia đình. Gặp chị, vừa đẹp vừa
là con gái nhà buôn bán khá giả ở Phụng Hiệp. Hai người yêu nhau thắm thiết. Ba
má chị ngăn cấm vì thấy anh nghèo, không tương lai. Nhưng chị quyết tâm một
lòng yêu thương anh, về làm dâu Xóm Chài mặc cho gia đình quay lưng từ bỏ…
Giọng anh kể ngập ngừng, khó nhọc.
“Tui làm mọi nghề, đụng đâu làm đó. Đến nay vẫn chưa lo cho bả được một lần
ăn ngon mặc đẹp. Nói thiệt với ông anh, nhiều khi tui hổng dám về nhà nhìn mặt
vợ con”.
Tôi thấy đôi mắt anh đượm buồn, sũng nước. Ly trà đá trong tay anh cũng run
nhẹ. “Thấy tui làm quần quật, bả đòi đi làm nhưng cả nhà đều cản. Sợ có chuyện
lần nữa, tiền đâu lo thuốc thang… Tháng trước bả nhận đan giỏ bện lục-bình tại
nhà. Hổng bao nhiêu tiền nhưng cũng đở tù túng tay chân…”, mắt anh Nhân (tên
anh) dù buồn nhưng tràn ngập yêu thương mỗi lần nhắc đến vợ. Không hiểu sao,
tôi muốn được nắm tay và ôm anh với lòng ngưỡng mộ. Có lẽ đã lâu lắm rồi tôi
mới nhìn thấy được ánh mắt, được tấm chân tình của tình yêu. Tình yêu thật đẹp
và quý giá có thật, đang hiệu hữu trước mặt tôi, của người chạy xe ôm ở bến
Ninh Kiều.
“Thằng con trai lớn làm thợ hồ chánh công trường, lương hướng rất khá. Mấy
năm trước bị đá đè, gãy một chân mặt. May mà người ta thương, vẫn còn cho nó
làm bảo vệ. Lương ít ỏi nhưng vẫn hơn thất nghiệp nằm nhà”.
Sợ anh chạnh lòng nhiều hơn, tôi hỏi lãng sang chuyện khác: “mỗi ngày chạy
xe ôm anh kiếm được bao nhiêu?”. “Thời taxi đầy đường, trừ xăng dầu tiền bến
kiếm được sáu, bảy chục là mừng. Nhằm bữa ế ẩm, chạy xe không còn lỗ cả tiền
xăng…”, anh cho biết. Lúc trước anh còn ráng chạy thêm ban đêm, nhưng mấy tháng
trở lại đây hổng dám nữa vì nạn cướp bóc hoành hành. Nhiều bạn chạy xe ôm ban
đêm, mất tiền mất xe và đôi khi mất cả luôn mạng. Rồi anh tâm sự tiếp về hoàn
cảnh gia đình mình:
“Đứa con gái kế làm công nhân ở Bình Dương, đủ ăn đủ mặc. Lâu lâu cũng gửi
dzề vợ chồng tụi chút đỉnh. Còn con út tui thì lấy chồng xa… Được cái, mấy đứa
nó thương vợ chồng tui lắm…”
Bên ngoài trời cũng bớt mưa, tôi hỏi anh thức ăn ở đây có ngon không? Anh
cười, “cơm chỗ này là nhứt rồi”! Tôi gọi thêm 3 phần cơm để anh mang về. Anh
ngại ngùng từ chối, rồi cũng nhận với lời lúng túng cám ơn.
“Chắc ông anh là Việt kiều phải hông?”
“Hông… tui là dân buôn bán trà ở Đà Lạt”, tôi đành phải nói dối anh cho qua
chuyện. Điện thoại di động của tôi rung liên hồi trong túi. Chắc bà xã đang
gọi, gần năm giờ rồi. Tôi nói anh Nhân chở tôi trở lại bến Ninh Kiều. Trên
đường về anh trầm ngâm và ít nói hơn. Sau cơn mưa không khí những đường phố Cần
Thơ trở nên dễ chịu và thơm mùi đất mới. Có lẽ cũng như tôi, anh đang cố sắp
xếp lại câu chuyện anh và tôi gặp gỡ, để về kể lại cho vợ con nghe. Rồi chừng
như tôi cũng ngồi im lặng phía sau không biết nói gì thêm. Chiếc xe ôm chạy
rong ruổi trên những mặt đường, còn tôi và anh đang bên nhau chạy mênh mông
trên những mặt đời nghiệt ngã.
Tôi nhắc anh để tôi xuống hơi xa khách sạn, phòng khi bà xã bất ngờ bắt gặp.
“Ông anh cho bao nhiêu cũng được… Hổng cần trả cũng hổng sao…”, anh nói lí nhí
khi tôi đưa lại chiếc mũ bảo hiểm. Tôi nhìn anh cười nhẹ, rồi móc túi quần gom
hết món tiền bà xã đưa tôi dằn túi nhét trọn vào tay anh, “anh Nhân nhớ lấy
tiền mua cho chị nhà vài bộ đồ mới cho đẹp nghen”! Anh nhìn tôi ngẩn người.
Không để anh khó xữ, tôi định quay đi, thì nghe anh nói nhanh:
“Dạ, cảm ơn ông anh thiệt nhiều. Nhưng chắc hổng dám lấy tiền mua quần áo đẹp
cho bả được đâu..!”. Giọng anh nghèn nghẹn, xót xa: “Đứa con gái út, tui
nói nó lấy chồng xa… Thiệt ra nó đi lấy chồng Đài Loan, rồi chết vì tai nạn
giao thông bên đó. Vợ chồng tui phải chắt mót dành dụm, để trả nợ số tiền mang
hài cốt nó về nhà mấy tháng trước…”
Tôi khựng người, chợt nghe trái tim mình như đang bị ai bóp nghẹn. Không dám
quay lại nhìn anh, tôi cố bước chân đi thẳng và thấy lòa nhòa công viên màu
nắng tắt. Số phận đời người sao cứ như cơn gió thoảng vô tình…
Rồi anh sẽ qua chiếc phà về bên kia Xóm Chài, với cuộc đời mỏi mòn còn lại.
Rồi tôi sẽ trở về bên kia xứ lạ, một đời đầy vơi kiếp sống tha hương. Anh có
thể quên tôi, một người khách trên chuyến xe ôm giữa muôn vàn dòng người tất
bật. Nhưng chắc chắn tôi sẽ không thể quên anh, chuyến xe chở cả một trái tim
sâu thẳm, một cuộc đời có thật của người đàn ông chạy xe ôm ở bến Ninh Kiều.
Buổi chiều như một nốt nhạc trầm buồn, chảy vàng vọt trên dòng sông quê hương
tôi muôn thuở…
Durham, North Carolina
Nguyễn Vĩnh Long