Thời giờ đi chơi như ánh chớp. Không biết sao cho đủ. Tới
Cali, người đầu tiên tôi ới bao giờ cũng là Thành Tôn. Cà phê cà pháo, ăn nhậu
sương sương, ké xe của anh đi gặp bạn này bạn khác, nhưng tiết mục phải có bao
giờ cũng là tới nhà anh. Có thời giờ thì được chị cho ăn mì Quảng. Không có thời
giờ thì dăm ba câu chuyện vội vàng. Nhưng phải là tại nhà anh. Chẳng phải vì
anh mà vì sách.
Trong văn giới Việt Nam tại hải ngoại có hai người khổ sở vì
sách là Trần Hoài Thư và Lê Thành Tôn. Trần Hoài Thư có tên cúng cơm là Trần
Quý Sách. Tên nào cũng…khổ. Tên Hán Việt “Hoài Thư” hay tên thuần nôm “Quý
Sách” đều vận vào người như nhau. Anh vất vả sưu tầm và phổ biến kho tàng văn
chương thời Việt Nam Cộng Hòa. Những đầu sách anh đã tự tay in và phát hành và
nhất là Thư Quán Bản Thảo là tim óc, mồ hôi và, đôi khi, nước mắt của anh. Với
tên cúng cơm và bút hiệu, anh là một người quý sách có cầu chứng tại tòa. Cái
tên Lê Thành Tôn không được chính thống như vậy nhưng anh cũng là người quý
sách có tiếng. Tới thủ đô của dân tỵ nạn Việt Nam, cứ theo Thành Tôn là có thể
liên lạc với toàn thể giới viết lách vẽ vời tại đây. Anh như con chim bay qua
bay lại với những cuốn sách quặp nơi chân. Anh chuyển sách một cách say sưa,
không bao giờ biết mệt. Trên tay anh, trên xe anh, lúc nào cũng có sách. Khi
qua Mỹ định cư, hành lý của anh cũng chỉ toàn sách. Sách không phải như bánh kẹo,
hũ mắm, con tôm, con cá mà người rời nước mang theo dễ dàng. Sách, nhất là sách
của thời trước 1975, là thứ phải đút lót mới mang ra khỏi nước được. Anh đã phải
chi tiền. Nhưng sách anh mang theo đâu có phải là sách cho anh. Anh mang qua
cho tác giả những cuốn sách đó dù không biết họ ở đâu, làm cách nào cho châu về
hiệp phố. Những sách đó anh đã thấy trên vỉa hè sách cũ, nhiều cuốn có chữ ký tặng
của tác giả. Những đứa con vất
vả lưu lạc đó, anh bỏ tiền ra thu thập chờ
ngày xuất cảnh. Qua tới đất tạm dung, anh tìm từng tác giả, tặng lại họ những đứa
con họ phải dứt tình bỏ lại để ra đi. Nhiều cuộc hội ngộ do tấm lòng với sách của
anh thật cảm động. Tôi không biết có bao nhiêu tác giả đã nhận lại được sách của
họ vì anh, với bản tính khiêm nhường và lòng quý sách, đã không nói cho tôi biết.
Nhưng trong những lần gặp gỡ, nhiều tác giả đã cho tôi hay họ đã nhận được sách
một cách cảm động như vậy. Tôi không phải là người thân cận với Thành Tôn, chỉ
khi nào qua Cali mới gặp anh, nên chuyện tôi biết chỉ loáng thoáng đây đó, qua
lời kể của người này người kia. Một bạn văn thân cận của anh, nhà thơ Trần Yên
Hòa, kể lại: “Có thể nói anh là một người có đầy đủ sách nhất. Điều này tôi
chỉ biết qua nhận xét của tôi thôi. Anh mua đủ loại sách, dù có những quyển
sách anh không thích nhưng anh vẫn mua về để làm tài liệu. Những sách cũ của
các tác giả xuất bản ở Việt Nam truớc 1975, qua cuộc đổi đời 75, khi ra đi
không mang theo được. Thế mà hỏi Thành Tôn, anh lại có, như những tập thơ của
Du Tử Lê chẳng hạn. Khi Du Tử Lê in toàn tập thơ Du Tử Lê, Thành Tôn đã cung cấp
cho Du Tử Lê những tập thơ cũ mà Du Tử Lê không còn. Hay bây giờ, nếu một bạn
văn nào đó cần tài liệu cũ, Thành Tôn đều có và cho mượn ngay. Đến nhà anh, anh
cho xem những tác phẩm của các nhà xuất bản An Tiêm, Ca Dao, Lá Bối… mà anh đã
đem theo và còn cất giữ, mới thấy được hết tấm lòng của Thành Tôn đối với chữ
nghĩa, sách vở. Anh kể, khi anh đi Mỹ, quan trọng nhất là hai thùng sách anh
mang theo, sau đó mới là những vật dụng cá nhân cho gia đình”.
Nhà anh là một thư viện. Đó là nói về số lượng sách. Nhưng
cam đoan không có cái thư viện nào bề bộn như vậy. Trong căn nhà nhỏ, sách lấn
người. Phòng khách của anh tứ bề là sách. Vài chiếc kệ sách èo uột, khặc khè ôm
sách, đứng sát vách tường như e dè với từng chồng sách chênh vênh trên bàn,
trên ghế. Trong các phòng khác, sách cũng chiếm thế thượng phong. Ngoài hành
lang, sách cũng lủ khủ trong những thùng giấy mà những khi mưa gió, anh phải di
chuyển để sách khỏi ướt. Nhà chỉ có hai vợ chồng nhưng sách của anh coi bộ làm
bá chủ. Chị nói nhỏ với tôi: “Chi chứ sách của anh là không bao giờ được đụng tới!”.
Sách được thể lên chân lên cẳng.
Cái quý của Thành Tôn là sự chia sẻ. Anh quý sách nhưng
không giữ riêng cho mình. Anh tặng lại các tác giả. Anh sẵn sàng cung cấp tài
liệu cho những ai cần tới. Anh cho biết có nhiều người đã quá quý sách của anh
nên mượn và giữ luôn. Anh nói với nụ cười, dù sao họ cũng có tình với sách. Anh
yêu sách như người ta yêu tình nhân nhưng cái khác của anh là sẵn sàng chia sẻ,
nhường nhân tình cho người khác. Thế nhân thường tình cho anh là người dại dột
nhưng anh trải lòng ra không một chút đắn đo suy nghĩ. Đó là tấm lòng của anh với
sách. Quý nhưng không giữ rịt cho mình.
Anh còn một cách chia sẻ khác. Phục chế sách để nhân ra nhiều
bản. Ngày mới sang, trước khi tặng lại cho tác giả cuốn sách anh quơ được ở vỉa
hè, anh chế một bản khác để giữ. Bản chính anh mang tặng. Tới nhà anh thấy ngổn
ngang đồ nghề chế sách của anh. Chỉ là những thứ tầm thường: kéo, dao cắt, keo,
hồ, chỉ. Trông thô vụng và tuệch toạc. Nhưng dưới bàn tay khéo léo của anh
chúng giúp anh gỡ tung bản chính cuốn sách,scanlại từng trang, rồi đóng lại như
cũ. Nhìn cuốn sách đã bị anh…hành hạ không ai biết nó đã bị xâu xé tả tơi từng
trang. Anh đưa cho tôi coi thử một cuốn. Không một vết tích sót lại của cuộc mổ
xẻ tan tành trước đó. Tôi giỡn: anh là người quý sách nhưng cũng là người xé
sách. Anh không vui với chữ “xé”, nghe đau lòng quá. Anh dùng chữ “gỡ” nghe dịu
dàng hơn.
Những trang sách được gỡ ra, anh scan lại trông y
chang như bản chánh. Nhiều cuốn, bản scan còn rõ hơn bản chánh. Anh ngồi
khâu, đóng lại thành một cuốn mới y chang như cuốn in trước. Cầm hai cuốn sách,
một origin, một nhái lại, không phân biệt được chánh phụ. Dùng chữ thời
thượng, phải nói là anh clone sách! Đỉnh cao của nghệ thuật nhân bản
sách của anh là cuốn thơ “Rừng Phong” của Vũ Hoàng Chương. Những trang thơ là
những chữ đen in trên nền giấy hoa tiên màu lá mạ. Anh khoe tôi cuốn này. Cầm
cuốn sách “giả” trên tay, tôi không nhận thấy khác bản thật một chút xíu nào.
Có lẽ đây là công trình mà anh tự hào nhất nên anh không chỉ khoe với tôi. Nhà
văn Trần Doãn Nho cũng đã từng được chiêm ngưỡng cuốn này. “Chàng khoe tôi một
tập thơ mới tìm được của Vũ Hoàng Chương, “Rừng Phong,” in năm 1955. Bên trong,
trang đầu, có mấy dòng đề tặng của tác giả cho Nguyễn Sỹ Tế, có đóng dấu triện
riêng của nhà thơ. Đã bao nhiêu năm lăn lóc mà tập thơ còn rất “phong độ.” Hỏi
chàng, chàng cho hay, đó là bản chế, chứ không phải là bản chính. Tôi sửng sốt,
không tin. Chàng bèn đưa cho tôi một cuốn “Rừng Phong” khác, và bảo đó mới
chính là bản gốc. Cầm hai tập thơ, thú thật, tôi không phân biệt cuốn nào là cuốn
thật, cuốn nào là cuốn phục chế. Chàng cho biết tập thơ này do người yêu sách
mua được trên vỉa hè Paris, gửi biếu ông Trần Huy Bích, chàng mượn và “chế”
thành nhiều bản y chang như bản gốc, dành tặng bạn bè. Một trong “bạn bè” đó là
Phạm Phú Minh. Có lần khi ghé thăm, Phạm Phú Minh mang tập thơ ra khoe. Biết đó
là bản “chế,” nhưng cầm lên, tôi vẫn phân vân, không rõ là “chế” hay thật. Đáng
phục tài chàng!”.
|
Những người mê sách gặp
nhau tại Little Saigon, Tết Kỷ Hợi 2019.
Từ trái : chủ nhân nhà sách Tự Lực, Lê Thành Tôn, Võ Thắng Tiết, Song Thao. |
Trong hành lý trở về Montreal của tôi có ba cuốn “Bốn Mươi Bốn
Bài Thơ Tuyển” của nhà thơ Trần Văn Nam, một cho tôi, một tặng Luân Hoán, một tặng
Nguyễn Vy Khanh. Trần Văn Nam là một nhà thơ kiêm nhà phê bình văn học rất quý
những trang chữ. Mỗi lần tôi qua Cali, tới Factory, anh đều có mặt. Và có sách
tặng. Gặp bạn văn, anh quý như vàng. Tôi cảm được qua những cử chỉ ân cần của
anh. Nhà anh ở tuốt trên Walnut, khá xa Factory, lái xe cả tiếng, nhưng khi nào
ới anh cũng có mặt tuy sức khỏe anh không được tốt. Năm nay, tới Cali, vắng
anh. Anh đã ra đi một năm trước đây, ngày 10/1/2018. Tập thơ này có tìm đỏ con
mắt ở các nhà sách cũng không thấy, bởi vì đó là tập thơ do Thành Tôn in ấn một
cách thủ công. Anh cho biết, dự tính của anh là gom góp những bài thơ của bạn
chưa in sách, tập hợp lại thành một cuốn, và chỉ chế một bản duy nhất để cúng bạn
trên bàn thờ ngày giỗ đầu. Nhưng theo yêu cầu của chị Nam, anh chế khoảng chục
bản để tặng tất cả các bạn văn có mặt trong buổi giỗ này. Nhu cầu ngày mỗi tăng
nên anh phải chế ra tới cả trăm bản tặng các bạn văn khác. Tôi cầm ba cuốn về
là vậy.
Cuốn thơ “giả” mà như thật nói lên cái tình của anh với bè bạn.
Trước đó, anh cũng đã từng “xuất bản” như vậy với anh bạn nhà thơ Đạm Thạch. Đạm
Thạch là một người dễ mến. Mỗi lần tôi qua Cali đều được anh cho ké xe đi nơi
này nơi khác. Ít năm sau này, anh bị bệnh, về ở với con ở Arizona. Sanh nhật Đạm
Thạch, Thành Tôn cũng sưu tầm những bài thơ đã in trên nhiều báo, chế lại thành
một cuốn thơ, tặng bạn giữa sự ngỡ ngàng và cảm động rớt nước mắt của bạn.
Thành Tôn là như vậy. Chẳng giữ chi cho riêng mình. Ai cần chi, ới một tiếng là
anh ra tay liền, không một mảy may tính toán. Tủ sách trong nhà anh là một kho
tài tiệu anh sẵn sàng chia sẻ với mọi người. Ông mê sách Trần Hoài Thư, khi thực
hiện các tuyển tập thơ văn miền Nam trong thời chiến, bộ nào cũng vài ngàn
trang, cũng đã phải ới ông mê sách Thành Tôn cung cấp thêm tài liệu. Sách báo
miền Nam trước đây, Thành Tôn sưu tập hầu như đầy đủ. Thiếu số báo nào, đầu
sách giá trị nào, anh đi tìm mượn bạn bè, về chế lại cho kho tàng sách của anh
được đầy đủ. Để có dịp là anh lại tung ra cho hoặc cho mượn.
Trong những ngày gần đây, Thành Tôn có trò chơi mới: thực hiện
sách báo online. Chuyện hơi lạ. Kiến thức computer của Thành Tôn
tôi biết rất rõ: chỉ là vào trang mạng, lên Facebook đọc tin tức và tác phẩm của
bạn bè. Chấm hết. Anh không có một dấu vết nào trên màn hình. Ngay cả e-mail,
phương tiện liên lạc văn minh hiện nay, anh cũng mù tịt. Tôi xúi anh bao nhiêu
lần anh cũng lắc đầu quầy quậy. Mệt! Vậy mà anh đang thực hiện việc số hóa bộ Hợp
Lưu cho Khánh Trường. Tới nay cũng đã xong trên chục số. Cứ như chuyện giả tưởng.
Hỏi ra mới biết anh chỉ giữ phần gỡ báo ra từng tờ và scan lại (nghề của
chàng!), chuyện sau đó, anh được sự cộng tác quý báu của một bạn trẻ rất rành
computer, anh Nguyễn Vũ. Anh rất tự hào về công trình này khi khoe là bản số
hóa được thiết kế để giở từng trang chỉ bằng cái click của con chuột. Lại
có tiếng động giở sách y như giở bằng tay thật. Khoe xong, anh cười: chuyện làm
tiếng tốn khá tiền nên chỉ có hai nhà sáng tạo được hưởng cái thú đã con ráy
này!
Sách lấn người trong nhà nhưng anh vẫn mua sách mới. Dĩ
nhiên chỉ những sách có giá trị. Tiền có trong túi anh chỉ dùng cho sách. Anh rất
khó tính với sách. Sách phải hay, dĩ nhiên, nhưng phải trình bày đẹp, bìa sách
phải bắt mắt và mỹ thuật. Ưng cuốn nào là anh phải bắt cho bằng được. Cứ như đi
cua đào! Sách mới ra, cuốn nào đáng mua, cuốn nào thuộc loại gặp nhau mà làm
ngơ, anh rất rành sáu câu. Thường mỗi lần qua Cali tôi đều tới nhà sách với
anh. Anh giới thiệu sách rành rẽ. Nhà sách anh thường lui tới, hầu như hàng
ngày, là nhà sách Tự Lực. Muốn kiếm cuốn nào, đừng hỏi nhân viên nhà sách, mà hỏi
anh. Anh sẽ dẫn lách qua những kệ sách san sát, tới đúng chỗ có cuốn tôi hỏi.
Muốn kiếm anh, nếu không có ở nhà, thì sẽ thấy anh ở tiệm sách. Có ngày anh ra
nhà sách tới mấy lần, vì… sách vụ.
Anh là người phát hành sách cho nhà xuất bản Nhân Ảnh tại miền
Nam Cali, trong đó có sách của tôi. Mỗi khi sách ra, anh hỏi nhà sách để biết số
lượng, báo cho nhà xuất bản. Nhà xuất bản sẽ order sách. Nhận được sách,
anh lễ mễ khiêng ra nhà sách liền. Trong ngày nhận được bao nhiêu lần sách do
các công ty chuyên chở mang tới nhà, bấy nhiêu lần anh ra nhà sách. Có sách
mang ra nhà sách, không có sách anh cũng tới Tự Lực. Để kiểm xem cuốn nào đã
bán hết, đề nghị order thêm. Tất cả những công việc này, anh đều làm tự
nguyện, không nhận bất cứ sự đền bù nào. Tất cả chỉ vì tình yêu sách của anh.
|
Thành Tôn và tác giả, tại
nhà Thành Tôn
|
Những ngày ở Việt Nam trước năm 1975, anh sống ở Đà Nẵng,
cũng nhận làm phát hành sách tại miền Trung cho các nhà xuất bản ở Sài Gòn. Một
tay anh, với chiếc xe đạp, thồ sách đi giao. Có khi sách tuột giây buộc, rơi lả
tả xuống đường, phải vất vả nhặt lại. Cũng… chùa! Thì các nhà Lá Bối, An Tiêm
chẳng của nhà chùa sao?
Tại hải ngoại, thời sách còn thịnh hành, anh vất vả cơm áo,
vậy mà vẫn loanh quanh nơi nhà xuất bản kiêm nhà sách Văn Nghệ của ôngVõ Thắng
Tiết (không còn là thầy Từ Mẫn của nhà xuất bản Lá Bối ngày xưa), trần thân với
sách. Cũng… chùa, tuy thầy Từ Mẫn đã rời nhà chùa!
Tấm lòng của anh với sách khiến mọi người quên anh từng là một
nhà thơ. Anh từng góp thơ trên Bách Khoa và Văn trước năm 1975 tại Sài Gòn. Thử
đọc vài câu trong bài “Nói Với Cô Bé Ngồi Quán”:
Ngậm lòng, quán vắng, ơn nhau
Ly trơ ghế nóng, bé chau mắt nhìn
Vào đây như một đức tin
Khói tan đốm thuốc, đời vin tay nào
Miệng cười kín nụ lao đao
Tình chia nghĩa sớt, câu chào riêng ai
Thơ anh lạ, rất cõi riêng. Nhưng anh không tiếp tục sáng tác
sau ngày miền Nam tan tác. Anh cho biết: “Làm thơ như vậy đủ rồi. Bây giờ mình
thấy làm thơ không hay, thôi không làm thơ nữa”. Đúng phong cách Thành Tôn: làm
cái chi cũng phải chỉnh chu! Trong văn nghiệp, anh chỉ kịp xuất bản một tập
thơ, Thắp Tình, vào năm 1969. Tập thơ này cũng rất…Thành Tôn. Anh tự thực hiện
từ đầu tới cuối: trình bày bìa, sắp chữ, đạp máy in và đóng thành sách.
Từ ngày xanh tóc đó anh đã… nghịch ngợm với sách, tới bây giờ,
trắng tóc, anh cũng vẫn nghịch ngợm như xưa. Một đời sưu tầm sách, phục chế
sách, chuyển sách, chia sẻ sách. Người ta nợ sách đèn, anh chỉ nợ sách. Trong
tình yêu, nợ và mê thường quấn vào nhau!
Song
Thao
03/2019