Chị ra đi vào một ngày cuối tháng Tư lúc cộng đồng tị nạn
người Việt đang chuẩn bị tưởngniệm 44 năm ngày mất Miền Nam, trong khi các bạn
chị ai nấy lòng ngổn ngang phiền muộn. Họ xót cho mình phải bỏ nước ra đi có lẽ
cũng đã nguôi ngoai nhiều, song xót cho những người nằm xuống vì tự do, và hơn
tất cả là xót cho cả một dân tộc vẫn lam lũ thiếu quyền làm người tối thiểu, và
một đất nước đang bị cầy nát, môi trường bị ô nhiễm trầm trọngvì lòng tham của
người tư bản đỏ.
Cháu Y Sa điện thư cho các bạn mẹ gửi lời chia buồn, viết:
“Mẹ cháu ra đi hôm nay, bình an và thanh thản, mọi việc mẹ cháu sắp xếp hết rồi.
Mẹ cháu có nói là để bố cháu chờ tới 20 năm –‘lâu quá’!” Nghe cũng cảm thấy
đươc sự bình an và thanh thản của chị, một người vốn kín đáo, thầm lặng và hiền
dịu.
Tôi được “thừa hưởng” tình bạn với chị từ phu quân của chị,
Anh Lê Đình Điểu (1939-1999), một người bạn văn nghệ rất say mê báo chí. Khi
còn sinh tiền, anh đã tiếp tay đắc lực trong việc xây dựng tờ báo nhiều tuổi nhất
ở hải ngoại, nhật báo Người Việt. Tiếc anh mất quá sớm, lúc mới 60 tuổi.
Liên lạc với chị không dễ vì chị có một đặc tính, đó là rất
bình thản dửng dưng đối với kỹ thuật hiện đại: không dùng computer, không có
e-mail và không cả điện thoại lưu động. Chỉ có thể liên lạc với chị qua điện
thoại giây, và chị dặn đừng gọi chị sau 9 giờ tối đấy nhé.
Tôi may mắn có dịp đến chơi và nghỉ lại một đêm và hàn huyên
với chị (cũng chỉ đến 9 giờ tối thôi)trong một chuyến nam du giữathu năm ngoái
tại căn nhà ở một thị trấn nhỏ trong Quận Los Angeles, ít người Việt, mà anh chị
mua và ở từ ngày sang Mỹ định cưđã mấy chục năm. Cũng dịp này tôi có cơ hội
nhìn thấy một bức ảnh rất đặc biệt của chị do các con chị chụp lại từ một trang
báo của National Geographic lồng khung tặng chị treo trên tường. Tôi xin chị số
báo, rồi vào lục trong văn khố của Nat Geo, và in nguyên bài báo có hình chị gửi
cho cháu Y Sa nhờ chuyển cho mẹ.
Đó là số báo Nat Geo tháng 10, 1961, có bài tường thuật dài
45 trang về Việt Nam, tựa đề “South Viet Nam Fights the Red Tide” (Nam Việt Nam
Chiến Đấu Chống Làn Sóng Đỏ) của Peter T. White và hình ảnh của W.E. Garrett.
Trong phần hình ảnh, nơi trang 458, có một bức hình chiếm nguyên chiều dài của
trang báo chụp một thiếu nữ mặc áo dài có vẻ là lụa, mầu cam, quần trắng, dép
hay guốc quai Nhật cùng mầu, đầu đội nón lá có quai cùng mầu, thong dong phóng
xe Velosolex trên một đường phố Saigon rợp bóng lá cây, tà áo sau có mép cột
vào yên sau lộng gió phất phới. Chị hoàn toàn không biết nhiếp ảnh gia Garrett
đang nhắm ống kính chụp chị. Cho tới khi một bà giáo người Mỹ (chị du học tại Mỹ
sau đó) thấy hình, nhận ra chị, cắt cho chị trang báo đó.
|
Chị Dung, trái, trên một
con đường ở Saigon, không biết là nhiếp ảnh giaW.E. Garrettđã chụp hình chịvà
in trên số báo National Geographic tháng 10 năm 1961, đi kèm với bài “Nam Việt
Nam Chiến Đấu chống Làn Sóng Đỏ”của Peter T. White. (Screenshot TD)
|
Cũng bài báo đó tôi mở ra xem sau khi nghe tin chị đã mất. Dừng
lại ở trang báo có hình chị, tôi lặng nhìn, ngậm ngùi. Ngậm ngùi vì không còn
có thể bốc điện thoại chuyện trò với chị - một cảm giác hụt hẫng của một người
vừa mất đi một người thân mà tôi đã từng trải qua.
Và nhất là vì cái không khí cận ngày 30 tháng 4 đã khiến tôi
không thể không nghĩ nhiều tới thân phận quê hương Việt Nam long đong đã trên nửa
thế kỷ từ sau ngày lấy lại được độc lập từ tay Pháp,mà lẽ ra phải là xây dựng
và vươn lên với thế giới loài người mới phải. Thêm vào đó là hoài niệm về những
gì đã diễn ra xung quanh cái thời điểm có thể nói là mấu chốt trong đó bức hình
của chị mà Nat Geo đã ghi lại.
Tháng 10 năm 1961 khi tấm hình chị đang vô tư phóng xe
Velosolex - cái xe mơ ước của những cô thiếu nữ thời đó - trên một con đường rợp
bóng cây ở Sài Gòn được phổ biến là lúc quốc gia non trẻ Việt Nam Cộng Hòa đang
được hưởng một thời kỳ thái bình nhất kể từ sau cuộc di cư 1954 của trên một
triệu người Bắc, trước khi bị đẩy vào một cuộc chiến tàn khốc do Cộng sản Bắc
Việt phát động qua các đặc công và tay sai nằm vùng.
Những năm sau đó cho tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, mặc dù
chiến tranh khốc liệtvà khủng bố không ngừng của Việt cộng, chỉ trong một khoảng
thời gian vỏn vẹn có 20 năm, VNCH đã thực hiện được nhiều thành quả đáng kể ở
nhiều lãnh vực, từ chính trị, luật pháp, kinh tế, nông nghiệp, xã hội, giáo dục,
văn học nghệ thuật và, đặc biệt quân sự do chỗ phải tự bảo vệ trong khi xây dựng
đất nước. Được như vậy là nhờ sự hỗ trợ đắc lực của Hoa Kỳ, bên cạnh sự tiếp
tay của các nước trong khối Tự do, và dưới sự lãnh đạo của những nhân vật còn
nhiều lý tưởng và một nước Mỹ hùng mạnh sau chiến thắng Thế chiến thứ hai, lại
là quốc gia đã giúp lục địa Âu châu xây dưng lại trên những đổ nát, kể cả hai
nước đã thua trận là Đức và Nhật.
Những thành quả không bằng những cao ốc, khu đô thị, trung
tâm nghỉ mát hào nhoáng mầu mè xây dựng phần lớn trên sự phá sản lầm than của
người dân bị cưỡng chế đất đai, mà là những di sản tinh thần bất biến của dân tộc,
tồn tại cách này hay cách khác để chờ ngày đất nước được phục hưng và bình thường
hóa, mặc dù những nỗ lực xóa bỏ, hủy diệt của người cộng sản từ sau khi chiếm
được Miền Nam.
Nổi bật nhất phải kể là nền giáo dục của VNCH, một nền giáo
dục dựa trên ba nền tảng chỉ đạo: Nhân bản, Dân tộc, và Khai phóng. Dạo ấy VNCH
đã nhận những trợ giúp tích cực của chính phủ Hoa Kỳ qua các chương trình hợp
tác của các trường đại học Mỹ. Trong số đó có Đại học Tiểu bang Michigan giúp
VNCH tái tổ chức và điều hành các hệ thống công lập; Đại học Nam Tiểu bang
Illinois giúp huấn luyện các giáo viên tiểu học; Đại học Ohio trong việc thiết
lập hệ thống Trung học Tổng hợp; và Đại học Wisconsin/Stevens Points tiếp tay
khai triển hệ thống giáo dục cao cấp.(*)
Kết quả là Nam Việt Nam đã, sau 20 năm, thiết lập và phát
triển được nhiều cơ sở giáo dục như các trường trung học tổng hợp, hệ thống đại
học cộng đồng, hệ thống trắc nghiệm và thẩm định, các đại học huấn luyện giáo
chức. Trừ các trường do tư nhân đứng ra thiết lập, còn tất cả các trường công,
từ tiểu học tới đại học, hoàn toàn miễn phí.
Gần dây trên Internet, tôi thấy xuất hiện những bài viết nói
lên niềm tiếc nuối đối với hệ thống giáo dục của Miền Nam. Điển hình là bài khá
dài và chi tiết, tựa là “Nhìn lại nền Giáo dục VNCH: Sự tiếc nuối vô bờ bến,” về
hệ thống giáo dục của Miền Nam.(**) Nhiều người trẻ trong nước cũng đã bầy tỏ
niềm nuối tiếc đã không được lớn lên trong môi trường đó.
Nhờ giáo dục phổ biến và phần lớn miễn phí, số học sinh,
sinh viên gia tăng, nhu cầu sách vở cũng nhờ vậy mà tăng trưởng, tiếp tay đẩy mạnh
các sinh hoạt văn hoá khác, trong đó có các ngành thuộc văn học nghệ thuật.
Lại nói về văn học nghệ thuật, có thể nói chưa có thời kỳ
nào trong văn học sử nước ta mà văn học nghệ thuật lại phát triển như dưới thời
VNCH. Trong vòng có hai thập niên mà Miền Nam cho ra đời trên 200 nhà văn, nhà
thơ thì vô số kể, sách vở đủ loại, sáng tác, tham khảo, dịch thuật, kể cả sách
của ông tổ Mác-xít Karl Marx, in ấn nhiều không kể siết khiến khi người cộng sản
khi phát động chiến dịch đốt sách Miền Nam sau 1975 thì chỉ có thể đốt vài đống
tượng trưng. Số còn lại đã được tẩu tán, cất giấu bởi nhiều người, trong đó một
số không nhỏ là từ Bắc vào. Thay vì giải phóng Miền Nam, chính họ mới thấy là
mình được giải phóng.
Những người làm văn học Miền Nam không những phát triển mà
còn mang theo, nuôi dưỡng mảng văn học nghệ thuật tiền chiến bên cạnh những tác
phẩm văn chương cổ điển khác của cha ông đã bị cộng sản khước từ, bức tử khi họ
chiếm lãnh miền Bắc vào năm 1954. Và giáo dục Miền Nam cũng lại đã tiếp tay đưa
những tác phẩm này vào chương trình giáo dục để các thế hệ trẻ có dịp thấm nhuần
các tư tưởng hay, đẹp, cao kiến của tiền nhân.
Đấy là chưa kể di sản ca nhạc phong phú của VNCH mà nhiều
người trẻ trong nước hiện cũng đang hát. Tôi thực không hình dung nổi một đời sống
của chúng ta từ trên 40 năm nay ở hải ngoại mà không có những bản tình ca của
các nhạc sĩ một thời Cộng hòa. Tôi xin ghi ơn các anh chị ca nhạc sĩ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay tôi xin thắp một nén hương cho những
người nằm xuống vì tự do. Nhưng tôi không coi mình là người mất quê hương vì những
di sản dân tộc vẫn còn đó.
***
Từ tưởng nhớ về chị qua tấm hình trên Nat Geo mà tôi có cảm
hứng viết bài này. Cám ơn chị.
Từ đây chị sẽ sống mãi trong tôi qua hình ảnh của cô gái hồn
nhiên trên chiếc Velosolex, biểu tượng của một Sài Gòn hào hứng xây dựng tân quốc
gia VNCH.
Xin chị hãy an giấc ngàn thu.
Trùng Dương
[2019-04]
Chú thích:
(*) Đọc thêm về các nỗ lực xây dựng Miền Nam: UC Berkeley
nhìn lại 20 năm VNCH xây dựng quốc gia trong thời chiến, https://damau.org/44777/uc-berkeley-nhin-lai-20-nam-vnch-xay-dung-quoc-gia-trong-thoi-chien-ky-12
(**) “Nhìn lại nền Giáo dục VNCH: Sự tiếc nuối vô bờ bến,” https://tuxtini.com/2013/12/01/nhin-lai-nen-giao-duc-vnch-su-tiec-nuoi-vo-bo-ben/.