Họ ở trước mặt tôi. Hẳn nhiên là như vậy. Họ có mười người,
năm mươi hay năm trăm người, tôi không biết nhưng nhất định phải hơn một người.
Tôi đã cảm nhận được điều đó qua sức nóng hừng hực của bầu không khí chung
quanh bằng cảm xúc của mình ngay khi được tên lính canh dẫn ra quảng trường
này. Bóng tối ở đây cũng dày đặc như những lần tôi bị lấy khẩu cung trong căn
phòng nhỏ nóng bức, nhung nhúc chuột, dán.
Hôm nay tôi được dẫn theo một lối đi khác với lối đi mọi
ngày. Nó dường như dài hơn, quanh co hơn. Có đoạn tôi cảm tưởng như đi qua một
trại nuôi súc vật, một con đường gập gềnh nhiều dốc rồi đến một bãi đất trống
thường làm nơi họp chợ, một công viên nhiều hương thơm hoa trái trong tiếng nước
chảy róc rách của một cái bồn nước. Tôi chưa từng đặt chân đến con đường này
bao giờ mặc dù thành bang này không hề to lớn. Họ đưa tôi đi đâu? Phóng thích
hay hành quyết? Tôi chẳng hề nghĩ nhiều đến việc này trong suốt thời gian bị
giam cầm, nhưng bây giờ đối mặt với tình huống khác thường, câu hỏi tự dưng lại
xuất hiện. Cuối cùng trò chơi cũng phải đi đến hồi kết bằng cách này hay cách
khác mà tôi không có quyền lựa chọn. Nhưng tôi có quyền tự do lựa chọn theo ý
mình sao? Tôi cười thầm chế diễu ý nghĩ đó của mình. Thực sự ai mới có quyền lựa
chọn trong sự vận động vô tình của lịch sử? Lịch sử hay là định mệnh? Cảm giác
xao xuyến, hồi hộp bóp khẽ trái tim nhưng tôi biết không thể tìm được chút manh
mối gì từ tên lính canh hung tợn đi bên cạnh để làm dịu đi sự lo lắng vô cớ.
Tôi nhớ lại buổi sáng cuối cùng của mình. Tôi từ ngoài vườn
vừa trở vô nhà, trong lúc đang còn loay hoay với sấp bài giảng thì bất thình
lình đám vệ binh xuất hiện trước cửa. Chúng đứng vây quanh tôi, gươm giáo tuốt
trần sáng choang, nét mặt khẩn trương, nghiêm nghị. Một tên, chắc là chỉ huy,
không mang giáo và khiên, chỉ đeo gươm ngắn bên hông, mũ đính đuôi chim trĩ đỏ
tía, đọc lệnh của hội đồng nguyên lão bắt tôi vì can tội hoạt động truyền bá dị
giáo gây nguy hại cho sự thịnh trị của đảo quốc. Lệnh văn được tuyên xưng xong,
tôi chỉ có đủ thời giờ vơ theo vội vàng một bộ đồ trước khi bị chúng giải đi.
Hôm ấy hẵng còn khá sớm, nhiều nhà vẫn chưa thức dậy. Một vài người trong xóm
thấy đám lính giải tôi đi vội vàng thụt vào trong nhà đưa mắt dõi theo lấm lét.
Tôi vừa bước đi vừa ngoái lại nhìn căn nhà, thấy những bông hoa cẩm chướng đong
đưa bên cửa sổ như bàn tay vẫy tiễn biệt. Ra đến con đường chính, tôi nói với
tên chỉ huy cho tôi được nhìn lần cuối cái xóm tôi ở và ngọn đồi đứng sừng sững
bên phải con đường. Mặc cho con mắt dò xét cảnh giác của đám vệ binh tôi chỉnh
đốn lại y phục và hướng về ngôi đền trên đỉnh đồi, ngôi đền mà tôi vẫn đến
chiêm bái và hành lễ mỗi ngày, cúi đầu cung kính đảnh lễ.
Gió trên quảng trường thổi nhẹ, chỉ vừa đủ mát, hất khẽ vạt
áo của tôi. Hít một hơi căng lồng ngực, cảm thấy khoan khoái. Ít ra vào lúc này
tôi cũng thoát ra khỏi gian phòng nồng nặc mùi cứt đái, đầy chuột bọ của mình để
được hít thở một chút khí trời. Mọi lỗ chân lông và giác quan như được đánh thức,
hân hoan mở căng hết cỡ. Tôi ngửi thấy thoang thoảng mùi cỏ dại, có lẽ cỏ mọc
đâu đó quanh đây hay là do trí tôi tưởng tượng, bởi dưới chân tôi chỉ là nền đá
rắn chắc, lồi lõm. Bây giờ đang là mùa xuân hay đã sang thu? Ngày hay đêm? Ngày
hay đêm với tôi từ bao lâu nay chỉ còn là một sự lập lại bất tận những tiếng
chân bước trong hành lang, tiếng mở xịch cửa, tiếng xướng danh, dọa nạt, tra hỏi
và dần dần tôi mất hẳn ý thức về sự chuyển dịch của thời gian. Tôi cũng mất đi
sự phân biệt nơi chốn. Ở đâu cũng chỉ tuyền một màu đen của bóng đêm. Căn phòng
giam tôi hình như cũng được thiết kế với chủ đích như vậy. Bốn bức tường bọc
quanh một không gian vuông vức không tiếp xúc với bất cứ cái gì, vừa vỏn vẹn đủ
cho một con người xoay sở với nhu cầu ăn uống, vệ sinh cá nhân và ngủ trong tư
thế co quắp. Tôi xoạc chân đi ngang, đi dọc rồi đấm tay vào vách nhưng chỉ có
tiếng động của nắm đấm vọng lại. Thời gian đầu mới vào đây tôi nghe ngóng động
tĩnh chung quanh xem ngoài tôi ra còn có ai khác bị giam nữa, nhưng dường như
chẳng có ai ngoài tôi. Có lẽ đây mới chính là hình phạt thâm độc của họ, cô lập
tôi hoàn toàn với thế giới con người bên ngoài để thậm chí đến cả nhu cầu giao
tiếp, nói chuyện cũng trở thành một nỗi thèm khát đến ám ảnh kinh hoàng. Rồi từng
bước tôi sẽ phải ngã quỵ để trở thành một nhành cây hay hòn sỏi trong giòng chảy
vô cảm, vô hồn của cái gọi là cuộc đời.
Điều lạ lùng là chưa bao giờ tôi lại thèm khát hơi ấm của đồng
loại như lúc này, thèm khát quay cuồng đến mức ngay cả ý nghĩ nếu như mình có bị
theo dõi đi chăng nữa, thì đó cũng là một ân huệ của Thượng Đế dành cho bởi vì
ít ra nó còn cho tôi cảm giác mình còn có người đồng hành bên cạnh. Tôi nhớ se
sắt đến đám học trò của mình, nhớ từng khuôn mặt, từng ánh mắt nhiệt thành khao
khát kiếm tìm chân lý. Chúng sẽ ra sao trong một thế giới bị thao túng bởi thói
giả trá và hiểm ác này?
Ngày ngày, cứ vào một giờ nhất định, tôi trông ngóng từng tiếng
động chung quanh trong thấp thỏm, hy vọng rồi thất vọng, chỉ cho đến khi nghe
được tiếng bước chân từ đầu hành lang của tên lính canh vọng lại mới thở phảo
nhẹ nhõm. Một mình trong bóng tối vô tận tôi chợt nhận ra con người mang vác sự
cô đơn như một hình phạt, một vết thương trí mạng, như người ta phải mang vác
cái bóng của mình trên mặt đất. Có lúc để thoát khỏi tình trạng ù lì, đông cứng
của trí não và để giải khuây, tôi tập quan sát bằng cách chú ý lắng nghe sự di
chuyển của những con chuột và học cách phân biệt chúng; khi mệt mỏi tôi lại
chuyển sang hồi tưởng những kỷ niệm từ thời thơ ấu, những phút giây hoan lạc
hay đau buồn trong đời, rồi quan sát sự thay đổi tâm trạng và ý nghĩ của mình từ
ngày đầu đặt chân đến nhà giam cho đến hiện thời. Tôi nhớ những buổi tối đầy
sao đi dạo với nàng bên bến cảng, nhớ những câu chuyện chọc cười của gã bán rượu,
một mùi hương của loài hoa lạ buổi sáng tinh sương hay một ngày đói thắt cả ruột
gan khi đi lạc trong cánh rừng không tìm được lối ra. Những hình ảnh từ ký ức cứ
lộn xộn, không đầu không đuôi, kéo dài miên man. Cuộc sống lúc đó sao mà giản dị,
đẹp đẽ nhường ấy. Tôi cảm tưởng như tôi đang nắm chặt vĩnh viễn cuộc sống trong
bàn tay mình.
Nhưng ngay cả độc thoại cũng lại nhanh chóng cho thấy là một
thứ hình phạt giết người chậm rãi, bởi vì nó trái với tự nhiên, con người sinh
ra không phải để tự giam hãm mình với chính mình, mà sống là ở phía trước, và
cùng với đồng loại. Trong bóng tối xà lim tôi nghiền ngẫm về trò chơi khốc liệt,
không lối thoát với đối thủ vô danh, vô hình này. Điều gì chờ đón tôi ở phía
trước? Sự thừa nhận thất bại và cùng với nó là cái chết? Không, sự kiêu hãnh
không cho phép tôi được đầu hàng. Tôi tin vào tri giác của mình, bởi trớ trêu
là sống trong bóng tối lâu ngày, các giác quan của tôi bỗng trở nên nhạy bén
khác thường. Chúng có thể tước đoạt tự do, kể cả sinh mạng của tôi nhưng nhất định
không để cho chúng có thể lấy đi được nguồn ánh sáng linh thiêng trú ngụ trong
linh hồn tôi và sâu trong mắt tôi. Sự căng thẳng cùng với cái lạnh và bóng đêm
mịt mùng làm cho tôi bạc nhược và sa sút nhanh chóng, đầu óc tôi trở nên mụ mị,
trống rỗng như một cái chuông tự ngân nga suốt ngày đêm không dứt, nhiều lúc chỉ
muốn xuôi tay bỏ cuộc. Cuộc chiến đấu với đối thủ không chân dung, theo thời
gian, rốt cuộc lại trở thành cuộc chiến đấu chống lại sự mệt mỏi, tâm lý thua
cuộc để giành giật chút ánh sáng đang ngày càng hiu hắt trong chính bản thân
mình.
Tên lính canh ấn vai đẩy tôi ngồi xuống. Dưới ánh sáng lờ nhờ
không rõ ngày hay đêm, tôi lờ mờ nhìn thấy sát bên mình một cái ghế đá không có
tựa lưng, giống như một cái băng dài ở công viên. Hơi mát lạnh của đá thấm vào
da thịt và lan tỏa ra khắp người làm tôi khoan khoái, tôi tụt dép đặt nốt hai
bàn chân trần của mình xuống nền đá lạnh. Thấy tôi cứ cục cựa không yên, tên
lính quát: Ngồi im. Lúc nãy mở cửa phòng giam, hắn cũng đã gắt gỏng giục: Đi lẹ
lên đi tên kia, trời nóng chết
mẹ; tôi nhận ra đó là một giọng nói lạ, cục súc, nóng nảy và thịnh nộ khác hẳn
với giọng nói vẫn gọi tên tôi hằng ngày để đi đến phòng thẩm vấn; có lẽ là một
tên lính canh mới. Đi bên cạnh hắn, tôi giương mắt nhìn chòng chọc vào nơi vừa
phát ra tiếng nói nhưng trước mắt và chung quanh tôi, như thường lệ, vẫn chỉ
toàn một màu tối đen. Tôi không thể thấy được nét mặt và hình dáng của tên lính
canh này, hắn chỉ là một giọng nói. Cũng như bao lần trước đó tôi không khi nào
có thể thấy được khuôn mặt và hình dáng của kẻ thẩm vấn mình mỗi ngày cho dù mỗi
lần, tôi đều căng hai mắt ra để cố xuyên thủng bức màn tối đen ngăn cách tôi với
cái giọng nói đó. Chỉ có những giọng nói. Mỗi ngày tôi phải nói chuyện với bóng
tối, với những cái miệng vô hình. Họ không có một khuôn mặt; họ là ai, là người
hay chỉ là một cái máy, tôi không thể biết. Cái cảm giác mình đang phải đối diện
với một kẻ vô hình nhưng có toàn quyền sinh sát ấy vừa khiến tôi cảm thấy như
rơi vào trong trạng thái của kẻ bị khủng bố nhưng hoàn toàn bất lực, thứ bất lực
và hoang mang của một món đồ vô tri trong bàn tay của một đứa trẻ; vừa tự thỏa
mãn với ảo tưởng như mình vẫn được tự do trong ý nghĩ và cách diễn đạt, tự do
cười khẩy hay khinh bỉ những câu tra hỏi ngu ngốc mà không sợ bị nhìn thấy. Tuy
vậy, có lúc tôi cũng vượt qua được cảm giác sợ hãi ban đầu và lấy lại sự tự
tin, rằng trong trường hợp này kẻ khiếp sợ thực ra không phải là tôi, mà là họ,
chính họ, những kẻ luôn ẩn nấp trong bóng tối.
Không biết thời gian chờ đợi kéo dài bao lâu, bất thình lình
tôi nghe tiếng tên lính canh quát lớn, ra lệnh: đứng lên! Hội đồng thẩm phán đã
đến! Tôi lật đật đứng dậy, đôi dép vẫn chưa kịp xỏ vào, cùng lúc nghe thấy phía
trước có nhiều chuyển động đi kèm với những âm thanh xì xào mơ hồ. Hội đồng thẩm
phán? Vậy có nghĩa là tôi đang đối diện với năm trăm con người đại diện cho
thành bang sẽ thực hiện việc xét xử và luận tội theo như quy định. Tôi đón nhận
một cách bình tĩnh pha lẫn chế diễu. Không ngờ hoạt động của mình lại có thể đe
dọa nền cai trị của họ đến như thế. Ôi! Thật tội nghiệp cho những kẻ chăn dắt
chỉ quen với mỗi sự tuân phục! Sự khác biệt đã làm cho họ run sợ đến mức phải
triệu tập cả một phiên tòa.
Dòng suy nghĩ miên man của tôi đột ngột bị cắt đứt khi có tiếng
nói từ trong bóng tối cất lên:
– Hãy đưa tội đồ tiến lên phía trước!
Tên lính canh vỗ mạnh vào vai tôi rồi một tay sốc nách tôi đứng
dậy. Tôi bước đi theo hắn một đoạn cho đến khi mũi giáo của hắn chặn ngang ngực
thì đứng lại. Có lẽ tôi đang đứng ở một khoảng cách khá gần với các vị phán
quan bởi tôi có thể nghe thấy tiếng xầm xì của họ, cả tiếng quần áo sột soạt
trước mặt. Thông thường đây sẽ là phiên tòa mở, có công chúng trong thành bang
đến dự khán. Không biết trong đám đông ấy có ai là học trò và người quen biết của
tôi đang hiện diện? Tôi muốn họ được chứng kiến giây phút đấu tranh cuối cùng
này, giây phút mà một con người bị đám đông kết án bởi đã can đảm lựa chọn sống
một cuộc đời cá biệt không theo quy ước, giây phút mà thứ trật tự chuyên chế áp
đặt sẽ phải bị tra vấn tính hiển nhiên của nó để cho sự thật được cất tiếng nói
dõng dạc đòi lại giá trị không thể hủy hoại của con người.
Tôi chẳng phải đợi lâu, chung quanh tiếng ồn ào, la ó đã nổi lên như sóng cồn.
– Treo cổ nó đi, đồ đạo đức giả!
– Tên nói láo gớm ghiếc!
– Thầy ơi Thầy!
– Thầy cả!
– Đồ phản bội!
Như được những tiếng hò hét kích động, đám đông càng lúc càng cuồng nhiệt như
trong một trận tỷ thí. Tôi chẳng nhìn thấy gì cả ngoài bóng tối kín bưng. Trời
chuyển nóng, tóc tôi ướt và trán rịn mồ hôi.
– Im lặng! Giữ trật tự!
Lệnh vừa phát ra từ trên các quan tòa, lớp sóng dữ lập tức bị chặn lại. Khi trật
tự đã được vãn hồi, một lúc sau tòa mới tuyên đọc bản án. Bầu không khí mỗi lúc
càng trở nên ngột ngạt một cách bất thường, mồ hôi tôi chảy dọc theo sống lưng.
Cử tọa im phăng phắc lắng nghe như nuốt lấy từng chữ. Cái nóng, sự chờ đợi và
nhiều ngày bị biệt giam trong bóng tối làm cho tôi bải hoải, hai chân bắt đầu mềm
nhũn và đầu thì ong ong. Tôi cố hết sức giữ tư thế đứng thẳng, mặt ngẩng nhìn về
phía trước, nhưng càng cố gắng tôi lại càng nhanh chóng xuống sức, chỉ muốn nằm
xuống và ngủ một giấc thật dài.
Có lẽ bản án quá dài, dài đến nỗi tôi hoàn toàn bị bất ngờ khi nó kết thúc mà
chẳng kịp ghi nhớ được điều gì. Dường như có một lúc nào đó tôi đã chợp mắt thiếp
đi trong chốc lát.
Khi quan tòa cho phép tôi nói lời tự biện hộ đầu tôi vẫn chưa hết cơn ngầy ngật.
Tôi chỉ nghĩ đến một ngọn gió mát, nếu có vào lúc này, sẽ có giá trị hơn cả sự
phóng thích. Tôi cố nhớ lại những gì đã nghe loáng thoáng lúc nãy một cách hết
sức khó khăn.
– Tôi không có tội!
Tôi vừa dứt lời, từ trong bóng tối liền rộ lên những tiếng
la ó phản đối kịch liệt. Cơn thịnh nộ chỉ tạm thời lắng dịu khi một viên phán
quan lên tiếng hỏi:
– Ngươi hãy nói lý do vì sao ngươi cho mình vô tội?
– Tôi luôn tôn kính thần linh và tuân phục thành bang.
Tiếng la ó lại nổi dậy bốn phía.
– Láo!
– Đồ giả hình!
– Thật là ghê tởm!
Sự phẫn nộ của đám đông cho tôi đo lường được tình trạng hiện thời của mình
cũng như bản án đang chờ đợi tôi ở phía trước, nhưng tất cả những điều đó thật
sự có ý nghĩa gì? Chân lý phải bị đánh cho tới chết.
Đợi cho tiếng ồn giảm xuống, một viên phán quan khác nói:
– Ai ai ở thành bang này cũng đều biết ngươi rao giảng những
lời báng bổ thần linh.
Tôi có cần phải trả lời không? Có cần phải tự biện hộ không?
Có ích gì những điều ấy? Tôi đã có thể bỏ trốn khỏi thành bang trước khi họ ra
lệnh bắt nhưng tôi đã không làm điều ấy. Tôi đã để họ giam cầm và chịu đựng mọi
khổ hình. Trốn chạy có nghĩa là khứng chịu thua cuộc, có nghĩa là thừa nhận họ
đứng về lẽ phải. Nhưng ở lại và ra trước tòa cũng không phải để bào chữa hay chạy
tội, mà chính sự hiện diện là thông điệp mạnh mẽ để nói lên sự đúng đắn trong
hành động của mình, bất chấp mọi kết quả chung cuộc, kết tội hay phóng thích.
– Tôi tin vào các đấng thần linh như tất cả công dân của
thành bang.
– Nhưng ngươi đã tin khác chúng ta! Và tin theo những lý lẽ
của ngươi chứ không phải là lý lẽ của công dân thành bang này!
Một tiếng nói khác tiếp nối:
– Ngươi có biết tìm cách diễn giải theo ý của mình là phạm
thánh và bất tuân phục luật lệ của thành bang không?
Làm sao mà tôi không biết điều đó chứ? Tôi biết hành động diễn giải là sự thách
thức trực tiếp độc quyền chân lý của họ. Lẽ ra tôi phải tôn kính thần linh và
phục tùng luật lệ của thành bang theo cái cách mà họ mong muốn. Họ kết tội tôi
bởi vì không những tôi yêu kính thần linh và luật lệ khác họ, với một ý nghĩa
khác họ, mà còn bởi tôi đã yêu kính hơn họ.
– Hội đồng cho ngươi năm phút để tự định đoạt hình phạt cho
mình.
Đám đông bắt đầu la hét dữ tợn.
– Hãy treo cổ nó đi!
– Cho nó một liều độc dược!
– Hãy đày nó ra hoang đảo đời đời làm kiếp nô lệ!
– Thầy ơi! Chúng con luôn ở bên thầy!
Đây là số phận bi đát của chân lý. Để giữ gìn được phẩm giá của nó, chân lý phải
bò sát mặt đất. Chân lý phải uống đến giọt đắng cuối cùng. Chưa lúc nào tôi
bình thản như lúc này. Trời đã dịu mát hơn so với lúc nãy nhưng lưng áo tôi vẫn
còn dính nhơm nhớp mồ hôi. Tôi chỉ muốn cởi phăng ném chiếc áo đi.
– Đã hết năm phút, tội đồ không có ý kiến gì. Bây giờ hội đồng
thẩm phán bắt đầu thủ tục nghị án.
Tên lính canh ấn vai cho phép tôi ngồi xuống. Lúc này tôi mới cảm thấy hai chân
mình mỏi nhừ. Tôi thở chầm chậm và muốn nghĩ về một điều gì đó dễ chịu nhưng đầu
óc của tôi hoàn toàn trống rỗng. Một lúc sau tôi đã nghe thấy các thẩm phán lục
tục trở ra. Thời gian nghị án không dài như tôi tưởng.
Một viên thẩm phán đại diện cho hội đồng tuyên án. Sau khi nêu mức độ nghiêm trọng
của tội lỗi, đã trịnh trọng tuyên án: tử hình.
Tôi sẽ phải uống một liều độc dược do họ pha chế.
Bầu không khí lúc mới bắt đầu tuyên án trầm lắng hẳn xuống như trong một lễ
tang rồi sau đó bất thình lình bùng vỡ ra thành những tiếng reo hò đắc thắng của
cử tọa. Kẻ thù đã bị họ đánh gục.
Viên thẩm phán vừa tuyên án nói:
– Tội đồ được tòa cho nói lời cuối cùng.
Tôi từ từ đứng dậy, sốc lại quần áo, nhìn ra chung quanh. Vẫn một màn tối đen.
Tất cả bỗng im phăng phắc, tôi tưởng như có thể nghe được hơi thở của họ. Tôi
biết có hàng ngàn cặp mắt đang chĩa vào mình. Tôi nhìn khắp lượt rồi từ tốn
nói:
– Chúng ta hãy cầu khấn thần linh cho những ngày chúng ta ở
thế gian này và kể cả sau khi lìa đời, sẽ tiếp tục là những ngày hạnh phúc.
Bỗng tôi nghe một giọng nói nghẹn ngào từ trong bóng tối:
Thầy ơi, thầy kính yêu, thầy còn căn dặn gì nữa không?
Ồ! Crito! Đúng là Crito rồi, đứa học trò giỏi giang của tôi.
Nó đã có mặt ở đây. Tôi xoay người hướng về phía tiếng nói vừa cất lên với tất
cả sự trìu mến, rồi nói:
– Crito! Đừng khóc!
Vũ Thành Sơn