Tôi vẫn thích sưu tầm ảnh đẹp. Nhìn ngắm một bức ảnh đẹp, thấy
lòng mình như lắng xuống, thấy tâm hồn như dịu lại và cuộc sống như cũng dễ chịu
hơn. Không chỉ thích ảnh đẹp tôi còn thích đặt tên cho ảnh. Nhiều ảnh không cần
phải đặt tên, thế nhưng có đôi lúc gặp bức ảnh gợi nhiều cảm xúc tôi vẫn muốn
tìm cho ảnh một cái tên.
Tấm ảnh tôi xem được ở nhà chị Dung là một ảnh như thế. Tấm ảnh
khá quen thuộc với những người thân của chị. Tôi gọi tên ảnh là “Hình ảnh một
buổi chiều”.
Tôi nhớ, trong chuyến đi Nam Cali ngắn ngày nhiều năm trước,
chị Dung nhắn vợ chồng tôi ghé nhà chơi. Trước đó tôi được chị gửi tặng tập
sách quý với chữ ký chỉ phác vài nét tên chị, cũng dung dị như tính cách của chị.
Trong sách có cái “note”, chị nói phải gửi qua bưu điện vì chờ mãi chẳng thấy
xuống để đưa tận tay. Tập sách đầy đặn, là “Tuyển tập Lê Đình Điểu”.
Chị Dung có lối nói chuyện thật tự nhiên và thân mật khiến
người nào gặp chị lần đầu cũng cảm thấy thoải mái và gần gũi.
Hôm ấy tôi cũng được gặp những con người thật nghệ sĩ trong
gia đình chị là chị Bích Huyền (phụ trách “Chương trình thơ, nhạc” quen thuộc
đài VOA) và anh chị Phạm Anh Dũng (nhạc sĩ sáng tác, với nhiều ca khúc phổ
thơ).
Sau bữa cơm gia đình là buổi “trà đàm” văn nghệ khá lý thú
giữa mấy chị em trong nhà. Tôi không định nhắc tên anh Điểu, thế nhưng đến khi
chị Bích Huyền đọc câu thơ trong bài thơ nào của Y Dịch,
Lần đầu em hát theo tà áo
Lần đầu anh bối rối bàn tay
tôi buột miệng hỏi chị cái lần “anh bối rối bàn tay” ấy có
phải là “thuở ban đầu” của anh chị. Hỏi thế là có lý do, tôi nhớ có đọc đâu đó
anh Điểu kể chuyện có lần anh phải đỏ mặt xấu hổ vì bị thầy giáo hay cô giáo
trong lớp chị “bắt quả tang” anh lóng ngóng đứng chờ chị ngoài hành lang lớp học.
Tôi chỉ nhớ được mỗi câu lục bát của anh, bèn đọc cả nhà
nghe và nói tôi thích câu thơ ấy vì rất gần với ca dao và thơ Nguyễn Bính.
Mùa thu có lá ngô rơi
Có đôi người mới thành đôi vợ chồng
Chị Dung nói chị cũng thích câu thơ ấy và anh chị đều thích
thơ Nguyễn Bính. Rồi vui chuyện, chị kể thêm những bài thơ nào anh viết tặng chị,
những bài hát nào hai người cùng thích, những cuốn phim nào hai người cùng xem
như là những kỷ niệm ngọt ngào và cả những nơi chốn đầy những “dấu chân kỷ niệm”
của anh chị kể từ ngày hai người gặp nhau, yêu nhau trong sân trường Văn khoa.
Tôi nhớ chị nhắc tên phim “Vũ điệu trong bóng mờ” (La valse dans l’ombre)
và tên bài hát “Tà áo Văn quân” của Phạm Duy Nhượng, như nhắc tôi nhớ ra rằng từng
có một bài hát đẹp như thế trong nhạc Việt, kể về câu chuyện… Một chàng
phiêu lãng, ôm đàn tới giữa đời.
Từ lúc ấy tôi chỉ có mê mải ngồi nghe và nghe, chỉ thỉnh thoảng
góp chuyện. Tôi nhớ định nói chị nên viết hồi ký kể lại câu “chuyện hai người” ấy
nhưng lại thôi, và chỉ nói thật tiếc là tôi đã không được gặp anh ngày trước.
Đến một lúc câu chuyện tạm ngưng, chị Dung bỗng đứng dậy nói
vợ chồng tôi đi theo chị. Chúng tôi bước vào căn phòng nhỏ tĩnh lặng, được chị
cho biết là phòng làm việc của anh Điểu. Chị nói từ ngày vắng anh, chị giữ
nguyên trạng các vật dụng bày biện trong phòng, như là anh chỉ mới vừa đi xa.
Thỉnh thoảng chị vào phòng lau chùi bụi bặm, kéo màn cửa cho ánh nắng rọi
vào.
Đứng bên chị, tôi đưa mắt nhìn quanh. Những giá sách, thật
nhiều sách, và những tranh ảnh rải rác. Tôi chú ý chiếc khung ảnh trên bàn làm
việc của anh. Tấm ảnh đen trắng, mờ mờ. Chị đứng nép một bên vai anh, tựa đầu
lên vai anh. Anh cúi nhìn chị, nụ cười ấm áp thương yêu. Cánh tay chị quàng lên
vai anh, và bàn tay anh nắm giữ bàn tay chị. Anh có nụ cười thật hiền, chị có
miệng cười thật đẹp, để lộ đường răng trắng. Trông anh chị như đôi chim bồ câu
quấn quýt không rời.
Tôi đứng nhìn thật lâu, như bị hút vào tấm ảnh, tưởng nhìn
thấy được hạnh phúc trên nét mặt chị, trên nụ cười chị và cả trên những lọn tóc
chị. Tựa đầu lên vai anh, khuôn mặt chị nằm nghiêng, mái tóc cũng nằm nghiêng.
Mái tóc anh từng yêu, từng viết thành bài thơ tặng chị. Tôi không nhớ bài thơ
như thế nào nhưng nhớ rằng bên dưới cái tựa chỉ có một chữ “Tóc” ấy anh viết xuống
câu dẫn vào bài nhạc “Hình ảnh một buổi chiều” của Lâm Tuyền và Dạ Chung, “Anh
không giữ trong tay một kho tàng hay một danh vọng nào cả, anh chỉ giữ hình ảnh
một buổi chiều, khi nắng vàng nhuộm mái tóc em.”
“Ảnh cũ lắm rồi,” chị Dung nói. Tôi nói tấm ảnh đẹp giống
như bài thơ hay, chẳng bao giờ cũ cả. Tôi lại quên hỏi chị ảnh chụp lúc nào, ở
đâu. Không gian ấy có thể là buổi sáng hay buổi chiều nhưng tôi cứ cho là buổi
chiều vì nhớ dòng chữ anh Điểu ghi trên đầu bài thơ tặng chị. Nơi chốn ấy có thể
là đồi cỏ hay cánh đồng nào ở miền quê. Xa xa, sau lưng hai người, là rặng núi
mờ mờ.
Trong thoáng chốc, tôi thấy lòng mình như se lại. Tôi nghĩ đến
những lần chị Dung một mình bước vào căn phòng vắng lặng ấy, một mình chị ngắm
nhìn những kỷ vật nằm im lìm ấy, và cả tấm ảnh mờ mờ đánh thức trong chị những
thoáng hạnh phúc mơ hồ, xa xăm. Chị giữ căn phòng ấy như giữ chút hơi ấm của
người chồng muôn thuở.
Sau ngày anh mất, chị Dung đã có những năm sống một mình, lặng
lẽ như chiếc bóng trong ngôi nhà đầy kỷ niệm ở Bellflower. Chị làm bạn với hoa
lá trong mảnh vườn sau nhà, chị tận hưởng sự tĩnh lặng và cứ một mình một bóng
như thế cho đến khi các con chị dọn về ở với chị.
Trở vào phòng khách, tôi nói đùa câu gì đó cho chị vui,
nhưng không thấy chị cười. Chị lặng yên như đang suy nghĩ chuyện gì hay đắm
chìm trong thế giới nào riêng tư.
Nhớ lần sau cùng tôi gọi điện thoại thăm chị Dung. Chị nói dạo
sau này không được khỏe lắm, rồi chị nói sang chuyện khác. Chị Dung là vậy, chị
chia sẻ niềm vui, chị giấu kín nỗi buồn. Chị không nói về mình, chị chẳng kể ai
nghe, nhiều bạn bè chị không hề hay biết gì về bệnh tình của chị cho đến khi…
Hôm được tin chị mất, tôi tưởng mình nghe lầm, tôi mong là
mình nghe lầm.
Cứ mỗi lần hay tin một người thân quen nào đột ngột qua đời,
tôi lại có cảm giác thật hụt hẫng như vừa bước hụt vào khoảng không và nhận rõ
hơn bao giờ hết cái vô nghĩa đến tột cùng của đời sống.
“Thứ Bảy này cả nhà sẽ tiễn đưa chị Dung,” chị Bích Huyền
nói với tôi đêm qua. Chị rưng rưng nói chị rất buồn và nhớ.
“Chắc giờ này chị Dung đã gặp lại anh Hà,” sau cùng chị Bích
Huyền nói.
“Tôi cũng tin như vậy,” tôi nói vậy, rồi mở cánh cửa sau bước
ra ngoài, ngước nhìn bầu trời đêm lác đác sao. Tôi dõi mắt trông về một ngôi
sao xa nhất, khi ẩn khi hiện trên nền trời đen thẫm, trông xa vẫn thấy lấp lánh
như có một linh hồn.
Em đi rồi, anh trở về hồn lạnh, mắt sao rơi…
Câu hát ấy ở trong bài nhạc phổ thơ Y Dịch, bài thơ “Tiễn
em” anh viết tặng chị khi tiễn đưa chị lên đường du học Hoa Kỳ, là thời kỳ hai
anh chị mới yêu nhau… thì xa nhau. Người phổ bài thơ ấy là em chị Dung, nhạc sĩ
Phạm Anh Dũng.
“Hai nốt nhạc ‘sao rơi’ ấy nghe thật là mênh mang,” tôi nói
với anh Dũng như vậy.
* * *
Chị Dung đã sẵn sàng và chuẩn bị mọi thứ cho chuyến đi xa của
chị. Chị bình thản chờ đợi điều xấu nhất đến với mình; hơn thế nữa, chị mong đợi
điều ấy đến với mình.
Chị mong đợi ngày ấy, như anh từng mong đợi chị, như anh và
chị từng mong đợi nhau suốt những năm chị du học, suốt những năm anh tù tội.
Anh và chị đã quen chờ đợi. Thế nhưng chị không thể bắt anh chờ đợi lâu hơn nữa.
“Mẹ để bố chờ lâu quá rồi, mãi đến 20 năm!” Chị Dung nói với
cô con gái mình.
Hai mươi năm của chị Dung chỉ như bóng mây qua, chỉ như giấc
mộng dài. Rồi anh chị lại có nhau, lại tay trong tay trên cánh đồng thời gian.
Cũng như chị Bích Huyền và bao người thân yêu khác của chị Dung, tôi tưởng nhìn
thấy anh đang dang rộng cánh tay về phía chị cùng với nụ cười ấm áp thương yêu,
nụ cười thật hiền hệt như trong tấm ảnh ngày xưa ấy.
Anh Điểu “không giữ trong tay một kho tàng hay một danh vọng
nào cả”, và chị Dung cũng chỉ giữ có mỗi tấm ảnh mờ mờ ấy. Tấm ảnh “Hình ảnh một
buổi chiều”.
Lê Hữu