
Năm 17 tuổi mợ Hai Huê về làm dâu nhà Cả Tam, ai cũng trầm trồ là nhà có
phước mới gả được con về làm dâu trong một gia đình giàu có tiếng tăm. Chỉ nghe
tên thôi là biết. Hộ tịch làng tự động đổi tên, thay vì Hoa thành Huê để tránh
húy kỵ. Người đẹp mà giỏi dang nữa mới quí. Vốn con nhà nghèo sớm làm lụng kiếm
sống. Trời cho có chút nhan sắc lại siêng năng cần mẫn nên được cả xóm bến đò
Chợ Gạo tấm tắc khen thầm.
Cha mất sớm, là con gái lớn nên vất vả lao đao từ thuở nhỏ. Theo gia đình
làm thuê trên ghe thương hồ đi khắp miền Lục tỉnh. Cho đến khi trôi dạt về tới
Chợ Gạo mấy mẹ con mới ổn định cất nhà trụ lại ở bến đò. Đất lành chim đậu. Chỉ
mỗi việc gặt lúa mướn, làm cỏ thuê quanh vùng cũng đủ để có cái ăn. Ngày thường
làm mướn, lột dừa thuê cũng sống được. Dân tình dễ chịu không kén người làm
thuê nên công ăn việc làm lúc nào cũng có.
Tiếng lành đồn xa, trai làng ngấp nghé nhưng chưa kịp mở lời thì duyên số gặp
ngay cậu Hai Cảnh, con ông Cả Tam ngó đến đem lòng thương mến rồi thành chồng
vợ. Đám cưới thật lớn rất đông khách mời. Rước dâu bằng xe ngựa, đơn chiếc
không có họ hàng nhà gái đưa dâu. Mẹ và các em cũng ở lại nhà. Đường xa. Cô dâu
khóc hết nước mắt suốt từ bến đò cho đến tận nhà trai, làng Long Bình Điền.
Nhà Cả Tam nức tiếng giàu có lâu đời. Bà Cả còn trẻ sinh nhiều lần nhưng đa
số bị chết non. Khi mợ Hai về làm dâu thì bà đang mang thai lần thứ chín, trong
nhà chỉ còn lại mỗi cô em chồng thứ bảy, tuổi chừng 15, 16. Sau đó mẹ chồng và
con dâu đều sinh con trai trong năm. Chú cháu cùng tuổi với nhau. Thầy bói cho
rằng rước mợ Hai về khiến cho nhà phát đinh, sinh toàn con trai.
Tuy về làm dâu có người ăn kẻ ở đầy nhà nhưng mợ Hai vẫn cưc thân vì cô em
chồng hay tị nạnh. Lại quen làm, không quen cự cãi nên mọi việc trong nhà hay
ngoài đồng đều đùn đẩy hết cho mợ quán xuyến. Cậu Hai thấy vậy chạnh lòng nên
xin với ông Cả cho ra riêng để lập thân, nhưng ông Cả không chịu và dứt khoát
là cậu Hai phải thừa tự ở nhà từ đường. Từ đó sinh ra cảnh mẹ chồng và cô em
ganh ghét đay nghiến hành hạ con dâu.
Đến khi mợ Hai có bầu đứa thứ hai thì bà Cả cũng mang thai lần thứ mười.
Nhưng lần nầy lại khác, cô dâu mang bầu phải phục vụ suốt cho tới kỳ sanh nở
của mẹ chồng. Công việc nhà còn phải lo tươm tất. Hôm ấy khi vác cây chuối đã
chặt buồng băng ngang qua cây cầu dừa bị vấp ngã nên động thai sanh non, đứa bé
mới 7 tháng tuổi. Không ai giúp đỡ săn sóc, may nhờ có bà mụ vườn thương tình
đến nhà làm thuốc cho cả mẹ lẫn con mới còn sống sót. Đứa nhỏ sanh ra không
biết bú và mẹ cũng chưa có sữa. Bà mụ bắt con còng gió ở các bờ mương đem về
rửa sạch giã nhỏ, vắt lấy nước đút mớm cho đứa nhỏ tập bú dần cho đến khi thuần
thục thì mỗi bữa chắt lấy nước cơm sôi mà pha đường thay sữa cho bú tạm, chờ
xin được sữa vú nuôi.
Ngoài công việc nhà bề bộn, mợ Hai coi luôn việc đồng ruộng, tính công cấy
gặt. Rồi sau mỗi mùa gặt theo lệ thường còn phải lo việc tổ chức ăn uống cho
đoàn hát lưu động do ông Cả rước về ăn ở trong nhà có khi kéo dài hàng tháng
trời. Bận rộn quanh năm. Hết năm nầy sang năm khác. Riêng việc sinh con năm-một
cũng có đến mười lần. Đâu có giờ nào rảnh để về thăm mẹ và các em. Coi như đi
biệt xứ. Còn mong gì giúp đỡ hay phụng dưỡng mẹ già. Mợ Hai tràn nước mắt trong
đêm khuya.
May mà còn có cậu Hai là niềm an ủi duy nhất trong gia đình, hết lòng thương
mến và khuyên nhủ chờ ngày ra riêng. Còn xóm giềng, “vạn cấy” lúc nào cũng
thương mợ hết dạ vì tánh cách bình dân cởi mở hay giúp đỡ mọi người. Đến mùa
cấy cũng lội ruộng gia nhập với chị em. Luôn luôn khi nào có mợ ra đồng thì
công thợ cấy đều được ăn ngon. Đi cấy sớm từ lúc trời chưa rựng sáng cho tới
khi mặt trời vừa dọi tới rặng trâm bầu là mợ Hai ra đến nơi đem theo cơm nếp
với mắm cá sặc. Vạn cấy lên bờ lấy lá chuối tươi đựng cơm nếp rồi xé con mắm
sống ra ăn từng nắm như xôi. Mợ Hai cùng ăn và lúc nào cũng không quên nhờ gia
nhân mang theo ra ruộng một vại nước mưa mát lạnh.
Rồi cũng đến lúc, thay vì cho ra riêng, ông Cả cho cất nối thêm căn nhà
chính ra thành hai căn nhà mới cho các con còn nhỏ cùng ở với nhau. Cô con gái
thứ bảy lo chăm sóc cho hai đứa em trai thứ chín và thứ mười. Có thể đoán trước
được sự tình anh em không hòa thuận khó sống chung lâu dài nên sẵn dịp cất nhà
mới ông Cả chia luôn đất đai vườn tược cho các con. Ruộng thì giao hết cho cậu
Hai thừa kế, không chia thành mãnh cho bất cứ ai. Trong họ tộc nói ra nói vào.
Nhưng ông Cả quyết định như vậy.
– Còn nhỏ mà biết có tài sản ruộng vườn sớm thì sinh ra ỷ lại chơi bời lêu
lỏng. Có nên gì.
Đã vậy rồi ông Cả còn giao hết bằng khoán, tiền bạc tài sản cho cậu Hai cất
giữ. Trong họ cho rằng mợ Hai là người đốc xúi mọi việc. Chưa được bao lâu thì
nạn dịch tả hoành hành, dân làng mười phần chết bảy còn ba. Ông bà Cả Tam cùng
qua đời lần lượt trong năm đó. Cô con gái thứ bảy nghe lời thầy bói cho rằng
cuộc đất cũ nay đã bạc màu bèn dẫn hai đứa em nhỏ lánh xa lên phần đất mà ông
Cả đã chia để cất nhà sinh sống. Huê lợi vườn dừa cũng đủ thong thả. Sau nầy,
cậu Hai lấy quyền huynh thế phụ giao cho cô em mấy mẫu ruộng tốt trên kinh cống
mà canh tác. Đầu trên xóm dưới ít liên lạc nhau. Chỉ giỗ chạp mới về cúng kiến.
Cô con gái thứ bảy của ông Cả rất xinh đẹp nhưng lại khó tính nên họ hàng
cũng như tá điền đều đồng lòng gọi là Bảy Dễ với mong mõi là sẽ bớt khó cho mọi
người được nhờ. Đã đến tuổi cặp kê, nhiều nơi mai mối nhưng đều cự tuyệt, cho
đến khi cha mẹ qua đời thì nhất định ở vậy để nuôi em. Tính hay cả quyết và
việc gì đến tay thì tự mình quán xuyến, ít khi bàn bạc hay thố lộ cùng ai.
Không thích mợ Hai từ khi mới về nhà làm dâu. Càng khó chịu hơn nữa khi có
người khen mợ Hai giỏi cái nầy hay cái kia, thậm chí là xinh đẹp hơn. Mâu thuẩn
ngày càng lớn, bà Cả lại hay bênh con mình nên lâu dần trong nhà luôn có sự
tranh chấp ngầm. Thiệt thòi luôn vẫn ở phần mợ Hai.
Kể từ khi cô Bảy Dễ dời đi, công việc nhà cũng như ngoài đồng đều thuận buồm
xuôi gió ngày càng phát đạt. Rộng rãi và tự do nên cậu Hai ngoài thú vui đờn
ca, hát xướng nay còn bắt đầu sinh ra cờ bạc rượu chè ngày càng thâm lạm. Cậu
còn muốn sắm xe hơi để đi Sài gòn, lên chơi ở “Đại thế giới” cho biết. Mợ Hai
cản ngăn làm dữ lắm mới xong. Nhưng đã quen cờ bạc rồi thì khó mà bỏ được.
Đến năm Tây đem lính xuống làng đóng trên lộ đá bắn phá, ruồng bắt nghĩa
quân và đốt nhà trong xóm, chỉ trừ nhà Bộ An vì có con làm thông ngôn theo Tây
về làng nên mới khỏi. Mợ Hai cùng với gia đình chỉ kịp đem mấy cặp liễng và một
ít bàn ghế, chén dĩa soong nồi liệng đùa xuống ao, đìa để tránh lửa cháy. Tàn
cuộc tài sản của cải coi như mất trắng chỉ còn trơ lại cái nền nhà..
Cậu Hai tự tay gầy dựng lại nhà cửa. Thầy bói khuyên nên đắp nền nhà tấn lên
phía trước thì mới bền vững. Vì tiếc mấy táng đá xanh bao đời nay nên cậu vẫn
dựng lại cột gỗ căm-xe kê táng trên nền nhà cũ. Chỉ lót gạch sân phơi lúa phía
trước nhà, đốn dừa, phát quang thông thống ra ngoài lộ đá. Mặt tiền nhà khang
trang hơn trước. Từ trên đường cái nhìn vào, nhà xây đúng cách “Tiền mã hậu
gia.” Nghĩa trang gia tộc lừng lững trên gò đất cao trước hàng dừa xanh um, bát
ngát.
Chưa được bao lâu thì Việt Minh nổi lên. Sự thế đổi khác. Họ bắt dân làng
nhà nhà đều phải nộp tiền để ủng hộ kháng chiến. Đồng thời tịch thu dần các mẫu
ruộng của chủ điền trong các khu căn cứ để chia lại cho tá điền, bần nông làm
chủ. Công việc đồng áng không còn nhộn nhịp như xưa, dân tình chia hai, người
trong bưng kẻ ngoài lộ đá. Chiến sự lan tràn. Đôi bên ra sức đánh phá. Vu cáo
lẫn nhau để ám sát hay bức hại dân lành.
Đầu năm 45 lại xảy ra nạn dịch đậu mùa hoành hành dữ dội, người làng chết
như rạ. Mợ Hai đang ở cữ đứa thứ mười thì vướng bệnh. Đứa nhỏ chưa đầy
tháng đã mất. Cả nhà lánh nạn chạy lên chùa tá túc chỉ còn cậu Hai ở lại túc
trực bên giường bệnh lo xắc thuốc, săn sóc mợ Hai cho đến khi lành bệnh. Nhưng
sau đó cậu Hai bị lây nhiễm và không qua khỏi. Mợ Hai trở thành góa bụa năm 38
tuổi.
Lúc bấy giờ trong họ tộc ngầm tín nhiệm cô Bảy Dễ lo chuyện chung như cúng
giỗ, chăm sóc mồ mã ông bà tổ tiên cũng như qui định phần mộ cho người trong
thân tộc khi qua đời. “Chỉ đâu chôn đó.” Dần dần xem xét luôn việc dựng vợ gả
chồng cho con cháu trong họ. Đại diện cho nhà Cả Tam khi có đình đám ở trong
làng. Sau đám giỗ đầu của cậu Hai, cô Bảy Dễ kén dâu cho người con trai trưởng
của cậu Hai là Hai Kiệm mà không hề có ý kiến của mợ Hai. Tuy là dâu con ở với
mẹ chồng nhưng lại vâng lời và nghe lời chỉ bảo của cô bên chồng.
Hai Kiệm tính tình hiền lành hơi nhu nhược, bỏ học sớm, ưa nhậu nhẹt say
sưa. Không lo gì việc đồng áng nói chi tới việc nhà. Mọi sự giao hết cho vợ.
Đến khi có con đầu lòng lại muốn sắm xe ngựa. Trong làng có ông Bảy Hào chuyên
nghề xe ngựa có mấy chiếc chạy đường Chợ Gạo – Mỹ Tho. Thương tình quen biết
với cậu Hai Cảnh nên sang nhượng lại cho Hai Kiệm một chiếc xe ngựa cùng nhau
dong rưổi cả ngày trên đường lộ đá. Chiều nào về hai người cũng tổ chức ăn nhậu
cho tới khuya. Say sưa có hôm không về nhà ngủ ở lại luôn cho đến sáng.
Lâu nay vợ Hai Kiệm vì muốn lấn quyền mợ Hai và vượt qua phận làm con dâu
nên toa rập với cô Bảy Dễ cáo giác mợ Hai có tư tình với Bảy Hào. Lựa hôm Bảy
Hào nhậu say xỉn ngủ lại nhà báo cho cô Bảy Dễ biết để dẫn đầu nhà Cả Tam đốt
đuốc rầm rập chạy tới nhà mợ Hai bắt gian tế.
Sau đó sự việc được đưa ra trước nhà việc Long Bình Điền xét xử. Bảy Hào
khai chỉ tới nhà nhậu chơi với Hai Kiệm như tình chú cháu chứ không có ý tư
tình gì cả với mợ Hai. Làng bãi nại đôi lần vì thiếu chứng cớ. Nhưng cô Bảy Dễ
áp lực với làng xin xử lại viện cớ là
– Ngay tình, say xỉn sao còn có thể nhảy trốn trong lu đựng nước mưa có che
mái lá dầm.
Các chức việc trong làng là chỗ quen biết thân tình với nhà Cả Tam, vả lại
cũng kính nể cô Bảy Dễ nên đã xử ép Bảy Hào tuy không có chứng cớ nhưng đêm hôm
đến nhà đàn bà góa mà ngủ lại qua đêm là không được nên xử tự hậu không được
đến nhà Hai Kiệm nữa. Còn mợ Hai là người có nhan sắc lại góa bụa mà không biết
giữ gìn ý tứ. Ban đêm có đàn ông con trai lạ say xỉn trong nhà mà không báo cho
người thân đưa về là không ngay tình nên phạt án đòn 20 roi làm gương.
Bày Hào xấu hổ về việc nhảy trốn trong lu nước. Làng trên xóm dưới xóm đồn
đại về việc nầy không chịu nổi nên đành bỏ xứ ra đi lên chợ Mỹ Tho cất nhà bên
Bến Tắm Ngựa làm nghề hớt tóc, chải bờm và đóng móng ngựa.
Cô Bảy Dễ họp gia tộc nhà Cả Tam, căn cứ vào án phạt của làng đuổi mợ Hai ra
khỏi nhà từ đường. Vì có 3 đứa con còn nhỏ nên cắt phần đất phía trong có độ
trăm gốc dừa để thu huê lợi nuôi con. Vợ chồng Hai Kiệm thừa kế tất cả ruộng
vườn, gia sản nhà Cả Tam
Ban đầu mợ Hai định dẫn con về quê cũ ở gần bến đò Chợ Gạo sinh sống, nhưng
sau nghĩ lại dù thế nào đi nữa cũng còn tiếng đời là con cháu Cả Tam, không lẽ
trôi sông lạc chợ. Phận mình đã đành sao lại để tiếng xấu cho con. Hơn nữa để
chứng tỏ cho mọi người biết sự ngay tình của mình không có làm điều gì xấu hổ
để phải bỏ đi. Mợ Hai quyết định trụ lại với bốn liếp vườn dừa, mở tiệm tạp hóa
bán trong xóm và cất chuồng nuôi heo bầy. Không cho con theo thói quen ăn chơi
như công tử nhà giàu mà phải ra sức học hành để có chữ nghĩa với đời. Trời
không phụ, ba đứa con sau nầy đều trở thành thầy, cô giáo và đứa út lên Sài gòn
học Cán Sự Điều Dưỡng sau ra trường về làm Trưởng chi Y tế ở Tầm Vu, Long An.
Lúc bấy giờ sau đình chiến năm 54 xã hội phát triển theo đà văn minh thành
thị cho nên sự học sẽ đem lại kiến thức và đồng thời nâng cao phẩm giá con
người. Sự giàu có ở nông thôn không còn là giá trị cố hữu như trước nữa. Kinh
tế cá nhân không còn lệ thuộc vào huê lợi ruộng vườn mà tự lập qua lương bổng
hằng tháng nên rất ổn định. Mợ Hai giờ hãnh diện là đã nuôi con ăn học thành
tài được hàng xóm trọng vọng. Lần lượt mấy đứa con lập gia đình ở thành phố đã
nhiều lần muốn rước mợ Hai lên ở chợ. Nhưng chỉ được một vài hôm là đòi về nhà
sống một mình thấy vui thú hơn.
Sự xung đột giữa mợ Hai với gia đình chồng cũng vẫn còn ngấm ngầm, nhất là
khi thấy con đường đi lên của gia đình mẹ góa con côi chỉ với bốn liếp dừa lão.
Lần cuối cùng cô Bảy Dễ lấy quyền đại diện nhà Cả Tam để từ chối cưới vợ cho
chín Công, đứa con út của mợ Hai. Chín Công có quen một cô gái nết na, hiền
lành xinh đẹp con của một thương gia giàu có ở chợ Tầm Vu xin vào học y tá
trong bệnh xá quận. Đôi bên gia đình đều đồng ý tiến hành hôn nhân sau khi cô
gái hoàn tất khóa học.
Tối hôm trước khi mợ Hai rời Tầm Vu trở về quê, chín Công hỏi:
– Má thấy cặp mắt cô Mai có gì lạ không?
– Không.
Chín Công kể lại rằng lúc nhỏ khi còn đi học cô Mai bị một cô bạn gái ngồi
kế bên huơ trúng ngòi viết nhọn vào giữa tròng mắt bên trái nên bị thương thành
sẹo che con ngươi không thấy đường. Mợ Hai hỏi:
– Thiệt vậy không?
– Thiệt.
Sau đó vài lần mợ Hai sang Tầm Vu để tìm biết sự thật. Chín Công thương thật
lòng và muốn cưới cô Mai làm vợ. Mợ Hai thương con cũng đồng ý. Nhưng
không biết sao cô Bảy Dễ lại biết được sự việc nầy nên ra sức ngăn cản:
– Hết người rồi hay sao mà đi cưới con dâu chột mắt?
Mợ Hai mạnh dạn quyết định cùng với chín Công tiến hành lễ cưới đàng hoàng
với đầy đủ lễ nghi. Dĩ nhiên cô Bảy Dễ tuyên bố từ cháu và không nhìn cháu dâu.
Sau đó chín Công xin đổi nhiệm sở đi thật xa về tận Tắc Vân, Cà Mau. Sống đầm
ấm hạnh phúc. Được vài năm hai vợ chồng mở một tiệm lớn buôn bán hàng gia dụng
cao cấp. Mợ Hai vẫn thường hay xuống dưới Cà Mau ở với hai vợ chồng vui vẻ.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 75 xã hội xáo trộn. Rất nhiều gia đình trong Nam lâm
vào cảnh khốn đốn. Thành phần thất học theo cộng sản nay về thành đem theo sự
kiêu ngạo và đối xử nhẫn tâm với người dân. Tệ hại hơn nữa là chính quyền mới
lại cấu kết với các thành phần bất hảo để trấn áp dân lành. Làng Long Bình Điền
cũng không ngoại lệ. Các gia đình có liên hệ với chính quyền cũ bị trù dập và
phân biệt đối xử. Còn những gia đình có người vượt biên, vượt biển thì thuộc
thành phần phản động. Gia đình riêng của Mợ Hai thuộc diện chế độ cũ có người
đi cải tạo. Sau lại có thêm người vượt biển sống ở nước ngoài nên lại càng được
lưu ý trong hồ sơ đen của xã.
Đến khi cộng sản thi hành chính sách rập khuôn theo miền Bắc gọi là hợp tác
hóa. Tất cả ruộng vườn tư nhân đều phải gia nhập vào hợp tác xã hoặc bị tịch thu
gom lại thành những tập đoàn nông nghiệp do nhà nước quản lý. Mợ Hai mất trắng
vì già yếu không còn sức lực để tham gia lao động sản xuất trong các hợp tác
xã. Bốn liếp vườn dừa không bồi đắp hằng năm nên huê lợi kém. Thuế nông nghiệp
lại cao nên mợ Hai giao ruộng đất luôn cho hợp tác xã quản lý.
Trước tình hình neo đơn như vậy, chính quyền xã nhân đạo đã hiến tặng lại
cho mợ Hai một cái quan tài gọi là “dưỡng thọ” đem đến để ở bên hiên nhà phòng
khi qua đời có hòm mà chôn cất. Kêu trời không thấu. Nỗi ám ảnh sự chết gần kề.
Càng ngày càng sợ. Mợ Hai thường hay bỏ nhà lên chùa làm công quả, lâu dần ở
lại luôn trên chùa.
Rằm tháng giêng năm Quí Tỵ mợ Hai qua đời tại chùa Long Điền được đem về an
táng trong nghĩa trang tộc họ nhà Cả Tam nhưng không được dựng mộ bia vì chết
nhằm ngày “táng vô mộ chí” theo lời cô Bảy Dễ.
Trần Bạch Thu