Mùa hè năm 1954 tôi mới được 10 tuổi. Tôi chưa học hết tiểu
học. (Vì gia đình tôi hồi cư về Hà Nội trễ.) Hai bàn chân bé của tôi được tham
dự vào “Cuộc bỏ phiếu bằng chân” của một triệu người miền Bắc di cư vào Nam.
Lúc đó ba tôi đang làm việc cho Sở Địa Chánh, Hải Phòng. (Ba
tôi từ Hà Nội thuyên chuyển xuống làm việc ở đây đã được gần 4 năm).
Sau những năm loạn lạc từ Hà Nội về Thanh Hóa, Thái Bình,
Nam Định rồi hồi cư muộn màng về Hà Nội (vì sợ Pháp bắt lại dọc đường). Cha mẹ
tôi chắc chắn không còn chọn lựa nào khác ngoài việc vào Nam để tránh Cộng Sản.
Phải bỏ nhà mà đi thôi.
Gia đình tôi bắt đầu bán dần đồ đạc trong nhà. Từ cái to lớn
như cái giường ngủ Hồng Kông của ba mẹ, cao lêu khêu có bốn cái cột đồng để
giăng màn, cái sập gụ, tủ chè, cái bàn tròn gỗ mun mặt bằng đá, đôn sứ cho đến
những cái nhỏ bé như chậu rửa mặt bằng đồng, bát đĩa, nồi xoong. Người đến mua,
là những người ở lại, không tính vào Nam, nhân cơ hội này họ kiếm được chút tiền.
Mua xong họ mang ra chợ trời bày la liệt ngoài đó bán lại, nên lúc nào cũng có
người lạ ra vào nhà tôi tấp nập.
Nhà tôi ở ngay trước Vườn Hoa Con Cóc, nơi người ta mang những
thứ mua đi, bán lại bày ra ở đó, nên buổi trưa, tôi có thể theo anh chị lớn ra
xem chợ trời.
Chợ trời lúc đó hấp dẫn lắm. Không thiếu một thứ gì trong
nhà mà không tìm thấy ở ngoài trời. Giường Hồng Kông, sập gụ, tủ chè, hoành phi
câu đối, đôn sứ, tràng kỷ, quạt máy, đĩa hát, nồi niêu, bát đĩa và nhất là
sách.Với tuổi của tôi, tôi chỉ nhớ là rất nhiều sách: Sách tiếng Pháp, Tự Điển,
Sách học đủ các môn và Tiểu Thuyết của người lớn tuổi. Ít ra thì các anh chị
Trung Học mới được chạm tay vào. Nơi này một tấm bạt, nơi kia một cái chiếu bày
la liệt từ sáng đến tối. Người bán cũng hấp tấp, người mua cũng vội vàng.
Có người không buôn bán gì, nhưng tính ở lại, nên cũng ra đó
xem có cái gì hay, cái gì rẻ thì mua về. Độ năm, ba ngày sau, nghe ai thúc giục,
rủ đi Nam, lại mang những thứ vừa mua được cộng thêm những thứ ở nhà mình, xếp
cả ra chợ trời.
Mẹ tôi mua về nhà những cái thùng gỗ, hồi đó là thùng sữa
“Con Chim” đóng hành lý của cả nhà, vào trong đó, mỗi người một cái. Chỉ mang
quần áo và một ít phụ tùng cần thiết như đồ nấu bếp, thuốc men thôi. Còn tất cả,
cái thì bán, cái cho họ hàng ở lại.
Mẹ con chúng tôi lên máy bay vào Nam trước. Ba tôi đi sau,
vì phải ở lại đến phút chót bàn giao Sở cho chính phủ mới.
Gia đình chúng tôi tới Tân Sơn Nhất vào một buổi chiều
(trong ký ức của tôi) cuối tháng 8 năm 1954. Phi cảng Tân Sơn Nhứt đông nghẹt;
tính trung bình mỗi 6 phút một là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến
4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.(Wikepidia)
Thử tưởng tượng ngần ấy con người với hành lý trút xuống sân
bay, sau đó được phân tán, trú ngụ tạm mấy ngày trong những lều vải, trước khi
tìm được nơi chốn cư trú lâu dài.
Cha mẹ, vợ chồng, con cái chen chúc trong đám đông đó. Thất
lạc nhưng rồi cũng tìm ra nhau.
Hành lý cá nhân mới là một chuyện khó lòng kiểm soát. Có người
di tản với gánh nặng ngàn cân trong lòng nhưng hành trang nhẹ hẫng, chỉ là một
cái túi vải trên vai. Có người đem theo tối đa những gì họ có thể đem được.
Trên một khoảng đất rộng mấy trăm thước vuông: va-li, thùng giấy, thùng gỗ, bao
tải, túi vải, đủ các cỡ lớn, nhỏ, vuông, tròn, dài, ngắn, được tháo đổ xuống. Mọi
người tự tìm hành lý của mình. Tôi và em tôi còn nhỏ, mọi việc đều do mẹ tôi và
anh chị lớn hơn lo.
Mẹ tôi tìm mãi vẫn thấy thiếu bốn cái thùng sữa đựng quần áo
của chúng tôi. Đi tới đi lui cả ngày xem ai có lấy nhầm sẽ đem trả. Đến tối cả
nhà lại kéo nhau ra bãi thả đồ đạc để tìm mấy cái thùng sữa của nhà mình. Vẫn
chẳng thấy cái nào cả chỉ có mấy cái bao vải bố, loại bao đựng 1 tạ gạo nằm chơ
vơ còn lại. Mẹ tôi bảo:
– Thử xem trong này có gì mà người ta không lấy, lại lấy cái
thùng của mình.
Cả nhà xúm lại, mở ra, bên trong toàn là sách cũ. Cả ba cái
bao to tướng chất đầy sách. Cái bao đầu tiên mẹ tôi lôi ra được cuốn Tam Quốc
Chí, mẹ nói:
– Mang về lều đọc, họ lấy quần áo của mình, vứt lại ba cái
bao này, không ai nhận thì mình nhận vậy.
Thế là ba bao sách to bằng ba bao gạo được cả nhà hì hục kéo
về lều. Sáng hôm sau mẹ tôi lên Phòng Điều Hành báo cáo về bốn thùng quần áo thất
lạc và ba bao sách kéo về lều. Cho đến khi gia đình chúng tôi xuất trại, bốn
thùng quần áo vẫn ở trong tình trạng mất luôn và ba bao tải sách vẫn vô thừa nhận.
Từ đó ba bao tải sách di tản cùng chúng tôi qua những ngôi
nhà: ở tạm, ở nhờ, ở thuê. Từ trung tâm thành phố đến ngoại ô. Ba bao sách
đương nhiên được coi như hành lý cần thiết được mang vác theo. Hữu ích lắm, cả
năm sau, người lớn, trẻ con trong nhà cho đến cả chị giúp việc, cũng thấy được
hưởng những cuốn sách đó. Có cuốn còn rất mới, nhưng có cuốn rất cũ, giấy ố
vàng, mỏng mảnh, dễ rách. Như cha mẹ tôi thì tối tối đọc lại Tam Quốc Chí, Thủy
Hử, Đông Chu Liệt Quốc, Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Gia Huấn Ca (Các cụ chắc biết mấy
truyện này lâu rồi) Tôi thì sáng trưa chiều gì cũng có một cuốn cầm tay, quên cả
ăn. Giữa những năm ở tuổi tóc chưa dài tới lưng, tôi đã đọc không biết bao
nhiêu cuốn sách: Sách của Tự Lực Văn Đoàn, của Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Nguyễn
Công Hoan, Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng; Sách dịch như: Tâm Hồn Cao Thượng, Những Kẻ
Khốn Cùng,v.v.
Thơ Nguyễn Bính thì tôi thuộc nằm lòng không thiếu bài nào.
Tôi thuộc cả tập Đồi Thông Hai Mộ nữa. (Một số sách vẫn được giữ lại cả mấy năm
sau)
Cả ngày cứ ê a đọc: Anh Đinh Lăng giờ đây đâu nhỉ/Anh của em
yêu quý nhất đời. Rồi: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh
rờn.
Trong nhà có ai cần hỏi câu gì về chữ nghĩa thơ văn là có
tôi “hướng dẫn” ngay.
Chị giúp việc nhà tôi thì mỗi lần nhóm bếp là xé ngay một
quyển sách, không cần biết sách mới hay cũ, Tây,Tàu hay Việt gì cả. Có lần tôi
xuống bếp gặp chị đang xé tập truyện ngắn mỏng của Thạch Lam, tôi hốt hoảng giật
ra khỏi tay chị thì cuốn sách đã bị thần hỏa thiêu hết một nửa rồi, đành ngậm
ngùi đưa trả lại chị, vì giữ cũng chẳng làm gì được nữa.
Mấy anh chị em tôi, chỉ có tôi là người mê sách, thích chạm
tay vào chữ từ hồi còn rất bé, nên tôi được hưởng hết những lợi lộc từ ba cái
bao gạo đựng sách di tản vào nhà tôi, Các anh chị, chỉ cầm lên, bỏ xuống, hoặc
họa hoằn lắm mới đọc một nửa quyển. Người thứ hai được lợi là chị giúp việc
nhà, cứ vớ đại quyển nào mong mỏng dễ xé giấy làm mồi nhóm bếp là chị xé. Chị
còn kéo hẳn một bao vào trong bếp cho tiện tay.
Nhờ có ba bao tải sách đó mà tôi đã được thấm vào tâm hồn tuổi
thơ của mình những tinh túy của văn chương sách vở. Nó thấm một cách tự nhiên,
như mưa rơi xuống mặt đất và lúc đó bé quá tôi nào có biết mình được lợi lộc
như vậy.
Những tinh tế trong văn chương của Nhất Linh, lãng mạn dịu
dàng của Thạch Lam đến nổi loạn của Vũ Trọng Phụng. Những cuốn sách mà những đứa
trẻ ở tuổi tôi lúc đó không có cơ hội được đọc.
Tôi học được sự giáo dục về lòng nhân ái, tấm lòng cao cả của
người nghèo và đạo đức trong Tâm Hồn Cao Thượng, do Hà Mai Anh dịch; chuyện người
đàn ông ăn cắp một mẩu bánh mì cho cháu bị 19 năm tù, rồi bị theo dõi suốt một
đời cho đến chết trong Những Kẻ Khốn Cùng, do Nguyễn Văn Vĩnh dịch.
Bâng khuâng, thương xót hay cảm động, hồi hộp, phân biệt giữa
xấu và tốt, tôi cũng điều được hưởng từ tuổi thơ qua văn chương.
Tất cả lần lượt chất vào tâm hồn tôi như người ta xếp những
món nữ trang quý giá vào một cái hộp bí mật, rồi cất đi. Tôi không hề biết tâm
hồn tôi chính là cái hộp quý đó cho đến khi trưởng thành, được học, được thầy
giáo dạy văn chương. Tôi mới biết là mình may mắn được đọc những áng văn chương
đó trước tuổi.
Càng lớn tuổi tôi càng hiểu: văn chương là một phần đời sống
của mình, không tách rời ra được.
Sáu mươi năm rồi, mỗi lần nhớ lại những ngày đầu tản cư. Mỗi
buổi trưa, đi học về, lục một cuốn sách trong cái bao tải đó, kiếm một chỗ vắng
người ngồi đọc. Chao ôi là thích!
Những thế giới kỳ bí mở tung từng cánh cửa bằng giấy cho một
cô bé lên 10.
Tôi cám ơn biết bao, người nào đó đã để lại ba cái bao tải
sách đó trên bãi hành lý của cả mấy trăm gia đình, mà chỉ có nhà tôi kéo về.
Mưa đã thấm xuống đất, đất mềm mại, đất hiền hòa và đất cho
những hạt giống nẩy mầm, sinh hoa kết trái.
Trần Mộng Tú
1954-2014