1. Ải Nam Quan
Ngày nay ở nước ta có hai di tích lịch sử nổi tiếng bậc nhất đã mất trắng. Đó
là Hòn Vọng Phu (thật), tức núi Tô Thị ở Đồng Đăng quê tôi và Ải Nam Quan, nay
đổi tên thành Hữu Nghị Quan, một danh xưng sặc mùi Cộng sản.
Ải Nam Quan là ải hướng về Nam, nằm ở địa đầu tỉnh Lạng Sơn, cách Đồng Đăng
quê tôi chỉ 5km. Theo sử sách ải Nam Quan do Trung Hoa dựng nên, ban đầu bằng
một cánh cửa gỗ dùng làm mốc cắm để ngăn chia ranh giới hai nước Việt-Hoa. Bên
phía Bắc cửa ải là huyện Bằng Tường, tỉnh Quảng Tây của Trung Hoa, còn phía Nam
cửa ải là xã Đồng Đăng, huyện Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn của Việt Nam.
Xưa nay đa số người Việt vẫn xem Ài Nam Quan là hình tượng đẹp nhất, một cái
tên quen thuộc và thiêng liêng nhất không bao giờ phai mờ trong lịch sử nước
Việt. Chính cửa ải này là nơi ngày xưa từng diễn ra biết bao biến cố đau thương
lẫn oai hùng, hiển hách của dân tộc ta.
Thế mà đau lòng thay! Ngày nay Ải Nam Quan đã không còn nằm ngay trên biên
giới Việt-Hoa, mà nó đã lùi sâu vào phần đất của Trung Hoa.
Nhớ lại năm 1407, quân Minh xâm lược Đại Việt ta, cha của Nguyễn Trãi là
Nguyễn Phi Khanh bị bắt giải sang Kim Lăng, nước Tàu. Nguyễn Trãi khóc tiễn cha
đến tận ải Nam Quan thì Nguyễn Phi Khanh khuyên ông trở về mưu đồ phục thù và
rửa hận cho cha bằng con đường cứu nước.
Nói tới Nguyễn Trãi mà tiếc cho nước mắt của ông. Ngày xưa, khi tiễn cha bị
đày qua Tàu nước mắt Nguyên Trãi đã thấm ướt cửa ải nước Việt. Ngày nay Ải Nam
Quan đã thuộc phần đất của Tàu, thế thì nước mắt ngày xưa của Nguyễn Trãi nay
đã trở thành giọt lệ khô trên đất Tàu vậy.
2. Đồng Đăng
Ải Nam Quan nằm ở địa đầu tỉnh Lạng Sơn. Lạng Sơn có con sông Kỳ Cùng chảy về
Đồng Đăng, nơi tôi sinh ra và lớn lên. Đồng Đăng, một thị trấn tuy nhỏ nhưng có
nhiều chuyện khá thú vị và kỳ lạ.
Cũng như những địa danh nổi tiếng khác trải dài suốt ba miền đất nước, Đồng
Đăng quê tôi cũng đã đi vào ca dao từ bao đời:
Cái cò bay bổng bay cao
Bay qua cửa phủ bay vào Đồng Đăng
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
3. Chợ Kỳ Lừa
Phố Kỳ Lừa có từ tiền bán thế kỷ XV nên chợ Kỳ Lừa là phiên chợ được hình thành
từ lâu đời. Vì lâu đời nên chợ Kỳ Lừa trở thành một truyền thuyết, lịch sử. Đẻ
của tôi nói Kỳ Lừa có nhiều truyền thuyết, nhưng tôi vẫn thích hai câu chuyện
Đẻ kể dưới đây:
Tương truyền, tên gọi Kỳ Lừa bắt nguồn từ câu chuyện, ngày xưa, ở khu vực
này có một con lừa rất kỳ lạ. Hàng ngày, khi được chủ thả đi ăn cỏ, con lừa tự
bơi qua sông Kỳ Cùng tìm sang núi Kỳ Cấp để ăn cỏ non. Đến tối, con lừa lại tự
bơi qua sông và tìm về chuồng (có người cho rằng con lừa kỳ lạ này là của Mạc
Đĩnh Chi). Người dân các nơi rủ nhau đến xem con lừa kỳ lạ rất đông, từ đó cái
tên Kỳ Lừa ra đời.
Tuy nhiên, có ý kiến lại cho rằng, tên gọi Kỳ Lừa bắt nguồn từ địa danh Khau
Lừ, Khau là Đồi, Lừ là Lừa, Khau Lừ có nghĩa là Đồi Lừa. Bởi ở khu vực này xưa
kia có những đồi cỏ lúp xúp làm bãi chăn thả lừa, ngựa nên gọi là Khau Lừ, về
sau mọi người đọc chệch đi thành Kỳ Lừa. Từ đó, chợ Kỳ Lừa là nơi sinh hoạt của
các dân tộc ở Lạng Sơn.
Có điều, cho dù có ý nghĩa gì và xuất phát từ đâu thì riêng cá nhân tôi, chợ
Kỳ Lừa là nơi tôi đẻ rớt nên khi lớn lên gần như mọi ngõ ngách, mọi đường ngang
nẻo dọc tôi đều rành rẽ. Nhưng mà cũng chính ngôi chợ này đã in đậm một nỗi
buồn rướm máu trong tâm hồn Đẻ tôi.
Số là trước ngày Bố tôi đi B, vào Nam chiến đấu, nhằm ngày giỗ ngoại, Đẻ
muốn đãi Bố một bữa giỗ cầy. Dù lúc đó gia cảnh chả khấm khá gì, Đẻ lại đang
mang thai tôi sắp tới ngày sinh nở, nhưng Đẻ vẫn xách giỏ ra chợ Kỳ Lừa mua
miếng cầy tơ cho Bố. Không may, hôm ấy trời mưa lâm râm, đường trơn, dù cẩn
thận Đẻ vẫn ngã, bất thần đẻ rớt tôi ra giữa chợ. Vì Mẹ con tôi bị tai nạn nằm
nhà thương nên Bố hụt một bữa giỗ cầy. Về sau, có lần vào ngày giỗ Bố, Đẻ nói:
“Tới chết Bố mầy cũng không kịp sơi một bữa giỗ cầy”. Bố tôi mất năm 1962 vì
bệnh sốt rét ác tính trên đường xẻ dọc Trường Sơn vào Nam.
4. Núi Tô Thị
Ngoài phố Kỳ Lừa, Đồng Đăng còn có núi Tô Thị, tức Hòn Vọng Phu, một truyền
thuyết về đá trông chồng nằm ở phía Bắc tỉnh Lạng Sơn vốn nổi tiếng trong thi
ca, hội họa, âm nhạc Việt Nam. Nhiều ngưởi hỏi nước Việt ta có bao nhiều Hòn
Vọng Phu. Người nói 5, người nói 7. Riêng tôi khi lớn lên đi làm thợ hồ ngược
xuôi khắp chốn, tôi đã từng đi qua, chứng kiến tận mắt bốn Hòn Vọng Phu
trải dài từ miền Bắc vào miền Trung. Ngoài Hòn Vọng Phu ở Đồng Đăng quê tôi,
tỉnh Bình Định, Tuy Hòa và đèo Dục Mỹ cũng có núi Tô Thị. (Miền Nam không có
Hòn Vọng Phu, chỉ có Hòn Phụ Tử ở vùng biển Kiên Giang, nay chỉ còn “hòn tử”
đứng trơ vơ).
Tuy nhiên, về sau tôi không còn quan tâm nước Việt ta có bao nhiêu Hòn Vọng
Phu mà đắng lòng vì di tích núi Tô Thị ở quê tôi bị hủy hoại.
Năm 1991, tượng nàng Tô Thị bị sụp đổ vì lòng tham và vì vô văn hóa của hai
người phá tượng để lấy đá nung vôi làm vật liệu xây cất. Việc làm tổn hại một
“quốc thể” như thế họ cũng dám làm thì thật là tắc trách.
Để gìn giữ một di tích đã in sâu trong lòng người dân Việt Nam, tỉnh Lạng
Sơn đã cho dựng lại nguyên bản núi Tô Thị. Chính tôi cùng toán thợ hồ ở Lạng
Sơn đã ra công sức dựng lại di tích lịch sử này. Nhưng mà dù thế nào đi chăng
nữa thì cái hồn của Hòn Vọng Phu đã hoàn toàn mất đi giá trị thiên nhiên của
nó.
5. Chùa Tam Thanh
Tuy tôi mang tiếng sinh ra và lớn lên ở Đồng Đăng nơi có chùa Tam Thanh, nhưng
vì bị thọt chân từ lúc chào đời nên Đẻ cấm không cho tôi lai vãng đến, cho đến
khi Đẻ tôi qua đời. Cuộc đời của Đẻ là một chuỗi đau thương trong đó có hai lần
bị vấp ngã. Lần đầu, bụng mang dạ chửa Đẻ trợt ngã trong chợ Kỳ Lừa may còn
sống sót, lần thứ hai thì mất mạng. Điều kỳ lạ là Đẻ của tôi bị ngã đầu đập
mạnh xuống bậc cấp dẫn lên chùa Tam Thanh đúng vào ngày lễ hội rằm tháng Giêng
hàng năm. Tôi lên chùa nhặt xác Đẻ bằng đôi chân khập khễnh và tiếng tôi ai oán
tru dài. Đó là lần đầu tiên mà cũng là lần cuối cùng tôi có mặt ở chùa Tam
Thanh.
Chùa Tam Thanh nằm trong động núi đá nên còn gọi là Động Tam Thanh. Chùa
được xây dựng từ đời nhà Lê, trong chánh điện thờ tự nhiều loại hình tôn giáo
như Phật A Di Đà, Thánh Mẫu, Sơn Trang… Chùa nằm lưng chừng núi trong một dẫy
núi cao, có nhiều cây cối um tùm. Ngoài danh lam thắng cảnh, chùa Tam Thanh còn
được biết đến qua các văn bia có giá trị về tín ngưỡng, tôn giáo, về sử liệu và
văn học nghệ thuật của các văn nhân, thi sĩ lưu lại qua các thời kỳ lịch sử.
oOo
Thưa bạn đọc.
Toàn bộ câu chuyên kể trên đều do ông Đèo Văn Rơi, quê ở Đồng Đăng, kể cho
tôi nghe. Theo ý ông, tôi chỉ sắp xếp lại sử liệu, sửa đổi chút tình tiết, văn
phong và câu cú để viết thành truyện Nước Mắt Nguyễn Trãi mà thôi.
Cũng cần nói thêm, ông Đèo Văn Rơi được con cháu bảo lãnh qua Canada từ năm
1990, hiện sống cùng thành phố Toronto với tôi.
Phan Ni Tấn