Trong ít ngày qua, khi kiểm điểm và sắp xếp lại sách
vở, thư từ, tài liệu để sửa soạn về cõi, khỏi làm phiền con cháu, người viết
tình cờ tìm lại được thư của một người bạn thân viết cho từ một trại tị nạn
Đông Nam Á. Người bạn đó là nhà giáo kiêm nhà báo Nguyễn Quốc Hùng, bút danh là
Thầy Khóa Tư của tờ Diều Hâu của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa ở
Saigon thời trước năm 1975. Bạn tôi xuất thân từ một gia đình Nho giáo. Anh là
con một vị huấn đạo, một học quan trong chế độ xưa nên rất giỏi chữ Hán và
chuyên dạy Quốc Văn cho các trường trung học ở Miền Nam với nhiệm sở chính là
Trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho. Nhưng khác với các giáo sư Quốc Văn
khác, anh không chỉ chuyên dạy Quốc Văn mà còn viết văn, viết báo, dịch truyện
cổ từ chữ Hán sang tiếng Việt như Kim Bình Mai, Hồng Lâu Mộng, chưa kể tới
Từ Điển Hán Việt...
Biến Cố 30 Tháng Tư 1975 đã xóa đi tất cả.
Trong thư viết cho tôi, Thày Khóa Tư có gửi kèm cho tôi bài
viết nhan đề “Giai Thoại Thi Ca Thời Đại” và yêu cầu tôi phổ biến. Bài
viết nói về bài thơ nhan đề Đề Miếu Hưng Đạo Vương truyền tụng là
do Hồ Chí Minh làm khi ông này viếng thăm Đền Kiếp Bạc hồi đầu kháng chiến chống
Pháp.
Đền Kiếp Bạc ở Chí Linh, Hải Dương, nơi thờ Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc Tuấn
Thư bạn tôi viết đã lâu, ngót bốn thập niên trước, chữ rất mờ
nhưng giá trị vẫn còn, nay tìm lại được, thể theo lời bạn, tôi xin sao lục gửi
tới các quý vị thân hữu quen biết anh, đồng thời cũng xin gửi tới quý vị yêu lối
thơ xướng họa của cổ nhân, có dịp nhớ lại sinh hoạt một thời, nay chỉ còn là
vang bóng. Bài viết nguyên văn như sau:
Giai Thoại Thi Ca Thời Đại
Thầy Khóa Tư
Khóa tôi lúc mới ở trại tập trung cải tạo ra, được một
anh bạn nhà văn đọc cho nghe một bài thơ của Hồ Chí Minh. Khóa tôi nghe xong
bài thơ mà tay chân bủn rủn cổ họng tắc nghẹn, vì nó thuộc loại cực mất dạy,
tối mất dạy, có lẽ do tên “phản động” nào làm rồi gán cho “Hồ Chủ Tịch Vĩ Đại”
để tuyên truyền bậy chăng. Anh bạn tôi tức quá, tìm cho bằng được số tạp chí Văn
Học Nghệ Thuật có đăng bài thơ đó dí vào mũi tôi.
Thì ra, hồi Việt Minh đánh Pháp, họ Hồ đi ngang đền thờ Đức
Trần Hưng Đạo, ghé lại đề thơ như sau:
Suy ra tôi bác cũng anh hùng,
Sau trước cùng chung giữ núi sông.
Bác đuổi quân Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi xua giặc Pháp, ngọn cờ hồng.
Bác đưa dân tộc qua nô lệ,
Tôi dẫn năm châu đến đại đồng.
Bác có khôn thiêng cười một tiếng,
Giùm tôi kháng chiến sớm thành công.
Thật là giấy trắng mực đen, Khóa tôi hết ý kiến. Anh bạn
nhà văn phạt Khóa tôi bằng cách bắt làm bài họa. Kể ra, đây là bài thơ niêm luật
chỉnh tề, vần đối chững chạc. Hay nhất là hai câu thực, từ ngữ sống động, hình ảnh
hào hùng. Nhưng không phải vì thế mà khó làm bài họa. Lấy thơ để họa thơ là
chuyện thường tình, khó là ở chỗ lấy ý mà chọi ý. Về vụ này, với bài thơ của họ
Hồ thì Khóa tôi xin chịu thua trước. Họ Hồ coi Đức Thái Sư Thượng Phụ Thượng Quốc
Công Bình Bắc Đại Nguyên Soái Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là chỗ bạn bè
quen biết, xưng hô “tôi tôi bác bác” thì Khóa tôi phải gọi họ Hồ bằng đại danh
từ gì cho tương xứng? Họ Hồ lại còn tự khoe là trên cơ Đức Hưng Đạo, vì họ Hồ ở
tầm vóc quốc tế, còn Đức Hưng Đạo có tầm vóc quốc nội, thì Khóa tôi phải so
sánh cách gì cho xứng?
Thôi thì, thật thà là cha quỷ quái, Khóa tôi cứ chuyện
mình mà nói, cứ đem mình ra so sánh với họ Hồ. Khóa tôi với họ Hồ có chỗ giống
nhau là trước sau cùng vượt biên, chỉ khác nguyên nhân và mục đích là khác (về
kết quả thì họ Hồ đã vượt biên thành công, nhờ làm cu ly bồi tầu cho Pháp, còn
Khóa tôi thì chưa thành công mà thôi).
Bài họa của Khóa tôi như sau:
Đề Lăng Hồ
Cu ly bồi bếp cũng xưng hùng,
Tao thẹn cùng mày một núi sông.
Tao trốn nguy cơ bầy quỷ đỏ,
Mày xua dân tộc đống than hồng.
Tao mua hạnh phúc chừng năm lượng,
Mày bán giang san được mấy đồng?
Hòm kiếng mày nằm sung sướng nhỉ?
Coi chừng chỉ một phát thần công.
Tất nhiên, như đã thưa trước bài họa còn thua xa bài xướng,
phê bình từng chi tiết là phần quyền của độc giả. Khóa tôi chỉ cầu xin Đức Hưng
Đạo Đại Vương mỉm một nụ cười thôi.
Thầy Khóa Tư
Mặc dù quá trễ, nhiều người lẽ ra tôi phải chuyển bài này tới
tận tay ngay khi nhận được theo ý Thày Khóa, trong đó có nhiều người không còn
nữa, tôi vẫn xin được sao lại ở đây để gửi chung tới quý vị độc giả, đặc biệt để
quý vị nào còn yêu lối thơ xướng họa của người xưa có thêm một giai thoại liên
hệ tới lịch sử nước nhà.
Phạm Cao Dương