Dòng sông dài gần hai ngàn dặm, chảy qua những miền đất xanh tươi, qua
những cõi người đã có thời huy hoàng: Đức, Áo, Tiệp, Hung, Nam, Lỗ, Bảo, Nga
rồi đổ vào Hắc Hải. Giòng sông như mạch máu khổng lồ nuôi dưỡng ruộng vườn,
muông thú, và tình người rào rạt hai bên bờ qua suốt lịch sử thăng trầm của Âu
Châu. Hảo thấy những thành phố tráng lệ hai bên bờ Vienne, Budapest, Belgrade…
Âm nhạc dặt dìu ngoài đường phố; những cô gái quê giặt lụa bên giòng sông cuồn
cuộn sóng khi chưa về, mặt trời lặn trên cánh đồng xanh. Không khí ngào ngạt
hương thơm… Rồi hai bên bờ sông bỗng mọc lên những hàng dừa. Nước sông chở đầy
phù sa. Hảo thấy mình sống ngọt ngào, ào ạt như gió khơi hai miền thế giới. Hai
dòng sông quyện vào nhau, nhịp nhàng. Bóng người chập chờn soi xuống dòng sông.
Hảo từ từ mở mắt. Giấc mơ của nàng vừa khép lại. Mi mắt như cánh bướm, mong
manh hơn giấc mơ vừa tỉnh. Thế giới hiện ra rõ nét. Mọi vật vẫn còn đó, nhưng
nàng có cảm tưởng vừa đi một chuyến xa. Thiện vẫn ngồi đó đọc tờ báo hàng ngày.
Thiện đang đọc phần quảng cáo vỏ xe. Thiện ít đọc sách, chỉ đọc báo và tạp chí,
và thâu nhặt những đơn vị kiến thức rời rạc về cuộc sống chung quanh từ đó. Từ
ngày quen nhau, Hảo chưa thấy Thiện đọc một quyển tiểu thuyết hoặc một bài thơ,
hoặc một quyển khảo luận ngoài lãnh vực nghề nghiệp chuyên môn của Thiện.
Hảo nhìn quanh, ghi nhận thế giới hàng ngày của nàng: cái áo dài may tuần
trước vẫn nằm im trong tủ. Cành hoa vẫn nằm trong bình nhỏ trên bàn. Trong chậu
rửa chén bát vẫn nằm im từ buổi ăn đêm qua. Như vậy là lần lửa một việc, vì tối
qua là đến phiên Thiện rửa chén. Hảo nhìn bâng khuâng ra ngoài cửa sổ. Buổi
chiều mùa hè sắp dứt. Góc trời phía Tây thành phố San Francisco ửng hồng. Mặt
Hảo có vẻ mơ màng. Các lớp vỏ miệt mài của thời gian được bóc ra từng lớp. Hảo
trông trẻ hơn, và dễ tổn thương như một người thành thực, và rất tin cậy.
Hảo là một cô gái Việt Nam tuổi tác không rõ rệt. Trên hai mươi, dưới ba
mươi. Nàng có vẻ đẹp nẩy nở của một người con gái Việt lớn lên tại Mỹ. Bốn năm
nội trú tại trường đại học ăn uống theo kiểu Mỹ khiến người đẫy đà thêm. Hơn
hai năm đi giày cao gót bưng rượu và thức ăn tại một nhà hàng Mỹ đông khách
khiến hông nàng nở to. Cá tính nàng đã thành hình. Xương sọ ngừng phát triển.
Nàng đẹp và không còn thay đổi nữa. Vẻ đẹp đó trên gương mặt sẽ còn mãi. Còn vẻ
đẹp của người nàng có lẽ bền, vì cá tính nàng bây giờ đang mạnh mẽ, trừ phi
tuổi già đến, trừ phi nàng mập ra vì đẻ con, vì lười biếng, hoặc vì quá nhàm
chán cuộc sống hàng ngày.
Hảo chồm dậy, vứt quyển sách du lịch lên chiếc bàn nhỏ đầu giường. Một tiếng
kêu khô khan. Thiện quay lại:
“Bực mình gì đó bạn?”
“Không có gì Thiện.”
Thiện nhún vai, quay lại tờ báo đang đọc dở. Hảo bỗng cảm thấy bực mình,
không hiểu tại sao. Nàng nhìn quanh, rồi tiến về phía bếp.
“Thiện rửa bát đi chớ. Để em dọn bữa tối.”
Rồi giọng Hảo nhẹ nhàng hơn, “Thiện muốn ăn gì tối nay để con nhỏ đầu bếp
này làm.”
“Món gì đại khái thôi. Tối nay phải soạn đồ đạc cho đủ. Sáng mai đi sớm
không có thì giờ check lại đâu Hảo à.”
“Hảo soạn xong rồi, Thiện cẩn thận quá. Qua đó nếu có thiếu gì thì mua. Tối
nay mình phải ăn mừng món gì đặc biệt. Lần đầu tiên trong đời hai đứa được đi
du lịch Âu Châu.”
Thiện đẹp trai và đậm người, hơi thấp. Thiện rời Việt Nam qua Mỹ du học sớm,
khi vừa xong trung học. Thiện mạnh về thể lực. Chậm chạp, cẩn thận! Hảo thỉnh
thoảng vẫn gọi đùa Thiện là “anh kỹ sư Vọi của Hảo.” Thiện khi biết được nhân
vật “anh Vọi” của tiểu thuyết thời Tự Lực Văn Đoàn thì có vẻ giận. Hảo xin lỗi
rồi lại đùa. Lâu dần thành quen. Thiện để yên. Thiện không giận ai được lâu, mà
cũng không giận được nhiều. Không hẳn vì điềm đạm, tự chế, mà là vì không tha
thiết, không bùng nổ được. Ngay cả trong sự giận dữ, Thiện cũng ngập ngừng,
không dứt khoát. Thiện thích nói “Để anh nghĩ xem đã.” Rồi Thiện cũng nghĩ đại
khái thôi, không đi đến quyết định rõ rệt. Hảo thỉnh thoảng bực tức vì thấy
trong sự chậm chạp lưỡng lự của Thiện có một cái gì phẳng, thụ động, như một
phiến đá. Hảo càng bực tức hơn vì Thiện cũng có vẻ khó lay chuyển như một phiến
đá. Hảo thấy tim Thiện đỏ hồng bơm máu mạnh mẽ, mà không chứa một giấc mơ,
không nồng nàn sôi nổi. Sự thắm thiết thì có, trong tình yêu chậm chạp, cẩn
thận, và kiên trì của Thiện.
Thiện nâng ly. Hai người cụng ly.
“Ăn mừng hay là tán tỉnh. Ăn mừng thì phải uống Champagne chớ Thiện.”
“Có một chai Champagne ngon, tuần rồi mình uống mất rồi. Drambuie anh nghĩ
cũng hợp lắm, vì anh cũng muốn tán Hảo tối nay.”
Hảo ngạc nhiên vì Thiện không phải là một người lãng mạn hoặc dí dỏm lắm để
có thể dễ dàng nói những câu như vừa rồi. Có lẽ rượu làm Thiện bạo hơn.
Rượu ngọt. Hảo cảm thấy ngây ngất. Nàng cảm thấy hơi mệt, nhưng hài lòng vì
món cua nhồi hạt tiêu, học được thời đi làm nhà hàng, có vẻ thành công. Hảo
nhìn ánh nến lung linh trên bàn, nhìn ra thành phố đã lên đèn trong bóng đêm.
Nàng cảm thấy vui.
“Hảo này.”
“Gì Thiện.”
“Thiện mong là sau chuyến đi này, về mình sẽ nói chuyện.”
“Chuyện gì Thiện?”
“Thì Hảo biết đấy.”
Hảo nhìn Thiện im lặng. Rất lâu. Rồi đưa tay với qua chiếc bàn ăn. Ngón tay
Hảo chạy phớt trên môi Thiện:
“Hảo hứa sẽ cho anh câu trả lời dứt khoát.”
“Mong Hảo sẽ đồng ý. Mình sống với nhau như vậy đã hơn một năm rồi. Anh nghĩ
mình có thể thành vợ chồng được rồi. Anh yêu Hảo. Anh trung thành với Hảo, sẽ ở
bên Hảo mãi.”
Hảo cảm động.
“Mình đã hiểu nhau nhiều phải không anh?”
“Phải. Những thói quen nhỏ, những sở thích lạ thường của Hảo, anh hiểu và
chịu được hết.”
“Còn những giấc mơ của Hảo, Thiện hiểu được không?”
“Ít có ai hiểu nhau tới mức đó. Hơn nữa, anh nghĩ không cần hiểu tới mức đó.
Vì chính Hảo cũng không hiểu được giấc mơ của Hảo đâu mà. Những giấc mơ đó rồi
cũng sẽ hết khi mình già đi. Đời sống vợ chồng sẽ bận rộn với sinh kế và con
cái, không còn thì giờ nữa để mà mơ mộng.”
Hảo nhìn Thiện, Thiện là một người tốt, lịch thiệp, hợp với đời sống mới,
luôn luôn chiều Hảo. Đáng tin cậy. Nhưng Thiện chậm chạp, thiếu óc tưởng tượng.
Hảo vẫn chưa rõ tại sao nàng lại sống với Thiện được. Có lẽ Hảo coi Thiện như
một người bạn. Hảo vẫn bắt gặp mình ao ước gặp một người mạnh mẽ, lãng mạn.
Thiện quá hiền. Hảo yêu Thiện theo thói quen và nhiều lúc bực mình vì Thiện quá
chiều nàng và không hề cãi nhau với nàng. Bất đồng ý kiến thì có, nhưng sau đó
Thiện lại nhường, hoặc nhún vai coi là không quan trọng. Hảo nép vào Thiện, cố
khơi dậy một giấc mơ nào đó trong Thiện, tìm nơi Thiện một con người nào đó
chưa có dịp lộ ra, nhưng không gặp. Thiện vẫn đều đặn, bình thường, và lịch
thiệp. Và Hảo lại tự trách mình đòi hỏi Thiện nhiều quá. Nàng cố nghĩ là hôn
nhân bền vững phải dựa trên tình bạn và sự hài lòng, nhường nhịn và thực tế.
Mọi giấc mơ đều nguy hiểm. Sự đều đặn bình thường là một đức tính của đời sống
không sóng gió.
Khi mới quen, Thiện theo đuổi nàng rất lâu, rất kiên tâm. Và một hôm, cảm
động vì lòng kiên tâm đó, Hảo cho là mình yêu Thiện và từ đó hai người sống với
nhau. Tình yêu chậm chạp và kiên trì của Thiện như nước chảy lâu trên đá, vẫn
làm Hảo cảm động, nhưng chưa thật sung sướng. Thiện vẫn thúc nàng làm đám cưới.
Nhưng Hảo thoái thác. Nàng sợ là mình chỉ yêu Thiện vì tình bạn, vì thói quen,
và vì sự cảm động. Hảo cũng chưa biết rõ Thiện mạnh hay yếu, vì trong cuộc sống
thường của hai người chưa có lần thử thách. Hảo sống trong sự bất an, chưa chắc
chắn lắm về nàng, về Thiện, về cuộc đời. Nàng còn trẻ và tự lập. Lòng còn đầy
ắp những giấc mơ. Tình bạn đối với nàng dường như chưa đủ. Và thói quen, nàng
có cảm tưởng là bức tường ngăn nàng hiểu rõ nàng hơn, hoặc buộc nàng không cho
thoát ra để bay lên cao hơn đến gần cảnh giới của những giấc mơ hoặc những thực
tại của một đời sống khác nàng có thể được sống.
Hảo đặt chiếc va li xuống và mỉm một nụ cười chiến thắng:
”Như vậy là xong. Mai chỉ việc ra phi trường thôi.”
Thiện gật gù.
“Hoan hô Hảo. Nhưng coi lại checklist chưa?”
Hảo dựa người vào thành giường, móc tờ giấy trong túi áo đưa lên đọc.
“Checklist đây. Đủ hết. Quần áo, giày, vớ, son phấn, cắt móng tay, thuốc say
sóng, ống nhòm, máy ảnh, phim… đủ cả, không thiếu thứ gì.”
“Khăn mặt, bàn chải răng nữa. Rồi còn thuốc bổ, thuốc ngừa thai, dầu khuynh
diệp. Hảo, đừng quên nhé.”
“Thiện quên không nhắc nồi niêu chén dĩa nữa. Coi như dọn nhà cho đầy đủ mọi
thứ.”
“Đừng bực mình chứ bạn. À Hảo này, Hảo sure là chuyến tàu trên sông Danube
vẫn theo ngày giờ đã định chứ?”
“Sure chứ. Đó là cao điểm của chuyến đi mà.”
Hảo với tay lấy một quyển sách du lịch để đầu giường.
“Nầy Thiện thấy không. Từ Vienne mình đi xe lửa, lên tàu tại đây. Giờ giấc
theo bảng này. Đi một ngày trên sông. Thăm nước Áo. Sau đó mình đi Venise,
Florence, rồi mới đi ngược về phía Tây Bắc, qua Thụy Sĩ và Pháp.”
“Đi nhiều nơi quá. Anh nghe đã thấy mệt rồi.”
Hảo không nói gì, tiếp tục đọc quyển sách, quyển sách du lịch nàng đã đọc đi
đọc lại, không biết bao nhiêu lần. Hơi rượu bữa ăn tối bây giờ ngấm, làm Hảo
lười biếng, mơ màng.
Căn phòng ngập tiếng nhạc. Self Control. Laura Brannigan hát. Cả căn phòng
như biến thành một trái tim lớn, đập thình thịch theo tiếng nhạc. Thiện tập thể
dục. Đẹp. Lượn đi lượn lại như một con báo.
Con báo đó yêu Hảo. Mặc quần áo, khoát lên người một lớp deodorant và
mouthwash. Tối thứ sáu con báo đưa Hảo đi ăn, rồi đi xi nê hoặc nghe nhạc, cười
theo những trò khôi hài của chị Disc Jockey trên đường Van Ness. Thân thể trai
gái trên sàn nhảy mướt mồ hôi. Tay vỗ theo nhịp. Đầu nhấp nhô. Nhạc truyền vào
đế giày, vào lưng ghế, vào người. Chủ nhật con báo đó ăn sáng, đánh răng, rồi
ngồi coi football, đợi ngày thứ hai.
Hảo đưa mắt nhìn ra ngoài trời. Bầu trời đêm lồng lộng ánh đèn San Francisco
và gió. Nàng nghe tiếng xe street car nghiến trên đường sắt trên khúc quanh
cuối đường Judah nơi gió mỗi mùa đông về lạnh buốt làm lề đường khô cứng kêu
vang dưới bước giày của những người đi một mình. Bây giờ là mùa hè, lề đường
chắc mát rợi tiếng vui đùa.
Đồ đạc trong phòng thưa thớt và đắt tiền. Cả căn phòng có một vẻ u nhã, khắc
kỷ, nhưng đầy dấu hiệu của một đời sống thoải mái và tự mãn. Phần lớn là dấu
vết của nàng. Cái thế giới đó chính nàng góp phần lớn tạo ra, bây giờ nhìn như
căn phòng của một người quen không thân lắm: tranh Lê Bá Đặng, đồ gốm Ý Đại
Lợi, đồ gỗ Đài Loan và Bắc Âu; những món trang trí từ nhiều nền văn hoá khác
nhau. Tất cả được hoà điệu theo một trật tự riêng, được nối lại bằng một sợi
dây là bàn tay và cặp mắt của nàng: màn cửa, khăn trải bàn, gạch lót, màu sơn
tường… Hảo ngạc nhiên, như một con chim bất ngờ nhìn thấy chiếc lồng son thường
ngày bao bọc.
Trên giường Hảo với tay qua Thiện. Thiện kéo nàng lại gần. Hai thân thể quen
thuộc tìm đến nhau. Trong sự hoan lạc nửa tỉnh nửa mơ màng, Thiện hỏi:
“Hảo đang nghĩ gì vậy?”
“Hảo đang mơ.”
Thiện mỉm cười, cái cười thoải mái, cái cười của thân thể khi hài lòng.
Sau bữa ăn no, bên ánh lửa trại:
“Thiện có mơ không?”
“Thỉnh thoảng.”
“Lúc nào?”
Thiện ngẫm nghĩ một chút, rồi nói chậm rãi:
“Lúc xuống tinh thần. Thất vọng. Buồn. Hảo đừng mơ nhiều quá. Yếu người đi.”
“Hảo nghĩ ngược lại. Hảo tìm sức mạnh nơi những giấc mơ. Không có những giấc
mơ chắc Hảo không còn gì.”
“Thấy dòng sông Danube, thấy dòng Cửu Long, thấy thành phố Vienne.”
“Hảo mơ nhiều quá, dễ thất vọng. Sông Cửu Long thì hai bên nghèo xác xơ.
Sông Danube thì bây giờ hai bên bờ sông là vùng kỹ nghệ, đầy những nhà máy, đường
xá và xe cộ. Âu Châu chật ních người. Còn gì nữa đâu Hảo?”
Hôm đó là ngày cuối tháng Tư, Hảo thấy buồn vô hạn. Nàng nghĩ đến chuyện
ly tán đã qua. Nghĩ đến thành phố Sài Gòn ngày nàng còn nhỏ. Chiều đến, Hảo
nhìn ra ngoài trời. Mặt trời lặn trên biển. Đỏ rực như quạt hồng một góc trời.
Hảo muốn ra biển chơi. Nàng rủ Thiện.
“Đợi anh một chút. Có cần đi lắm không Hảo?”
Hảo đợi. Cái gì cũng phải cần nói rồi mới làm sao. Thiện chậm chạp tắt TV,
đứng dậy thay quần áo, bước đi bước lại trong phòng. Chải đầu. Đi giày. Vuốt
lại quần áo cho thẳng. Hảo bỗng cảm thấy bực bội.
“Sao anh không mau thêm chút nữa?”
“Vội vàng có lợi gì đâu Hảo?”
Hảo nổi giận thực sự. Nàng cảm thấy một sự khoan khoái đóng sầm cánh cứa lại
sau lưng:
“Thôi anh ở nhà coi tivi đi. Đàn ông gì mà ù lì quá vậy?”
Hôm đó Hảo xin lỗi Thiện và thấy buồn. Thấy Hảo buồn, Thiện nhắc đi nhắc lại
là chàng không phiền câu nói nặng trong lúc tức giận của Hảo, do đó Hảo không
nên buồn. Hảo vẫn buồn, vì nàng biết nàng buồn vì lý do không phải như Thiện
nghĩ.
“Này Thiện, Thiện thích đi đâu nhất?”
“Paris, ngồi quán cà phê trên đại lộ Champs Elysees. Thăm Khải Hoàn Môn, các
bảo tàng viện…”
Im lặng.
“Tại sao Hảo thích sông Danube thế?”
Hảo không trả lời mà nhìn ra ngoài bầu trời sao của thành phố San Francisco.
Rồi Hảo nói, giọng nhẹ nhàng tươi mát:
“Hồi bé em thỉnh thoảng đọc sách Pháp, đúng ra là xem hình. Em còn nhớ những
màu sắc tươi sáng. Đồng cỏ nào cũng xanh mướt. Con đường quanh co chạy vào
làng. Con bò sữa sạch sẽ đứng gậm cỏ an nhàn. Góc phố trong làng có một xe bán
cà rem. Các đứa bé ăn mặc tươm tất rủ nhau qua đường. Một người đàn bà đẩy một
chiếc xe chứa một đứa bé kháu khỉnh. Một người đàn ông đứng lại giúp một bà già
tóc trắng qua đường.
“Còn dòng sông nào cũng xanh biếc, sạch như mơ, hai bên có những lâu đài
sương phủ. Chiều về thôn nữ giặt lụa ven sông. Lớn lên đọc Le Grand Meaulnes,
nghe Thái Thanh hát lời Việt bản Dòng Sông Xanh. Em sống với dòng sông đó trong
tâm tưởng từ nhỏ. Dòng sông ngày đó chảy về cõi thiên thai. Em muốn bây giờ đến
coi, tìm lại giấc mơ ngày xưa. Em nghĩ là dòng sông vẫn còn đó, vẫn còn đợi em.
Dĩ nhiên, thời gian mang lại bao nhiêu là thay đổi. Nhưng có lẽ còn kịp phần
nào. Để vài chục năm nữa, sẽ mất hẳn. Nếu không vì dòng sông thay đổi thì cũng
vì thời gian xoá đi giấc mơ ngày nhỏ. Em tìm dòng sông cũng như có một thanh
niên đã tìm một mỹ nhân nơi một lâu đài kỳ bí. Em nhớ đến một bài thơ cũ, của
ông thầy dạy Anh văn em hồi nhỏ tại Sài Gòn:
“Cửa cao thoắt hiện một giai nhân
Trang phục xưa u diễm bội phần
Những tưởng kiếp xưa nào đã gặp
Nay về trêu cợt mộng thanh
“Sinh trưởng trong Nam, em không biết sông Đà, cũng không biết sông Tương.
Nhưng em vẫn có cảm tưởng chúng chảy trong người em. Có cảm tưởng đã nhìn thấy
sông Cửu Long. Nước phù sa và hàng dừa hai bên sông. Tất cả những dòng sông đó
chảy hoà vào nhau, cùng ra biển.”
Hảo với tay tìm Thiện.
“Bây giờ anh hiểu tại sao Hảo muốn đi tàu trên sông Danube rồi chứ?”
Thiện không trả lời. Bàn tay Thiện không đáp ứng. Thiện đã ngủ say.
Đêm hôm đó có lúc hai người chợt thức giấc. Họ yêu nhau. Trong sự nồng nàn,
có một chút chua xót nhẹ nhàng. Hảo nhắm mắt lại. Nàng quên mất Thiện bên cạnh.
Sự giận dữ và thất vọng trong nàng tan biến. Nàng chỉ cảm thấy một sự xao xuyến
khiến tim nàng chuyển động một cách khó nhọc. Thiện cảm thấy Hảo xa dần, trôi
dạt trong giấc mơ nào đó của nàng. Chàng nghe Hảo thở dài. Trong giây phút lãng
đãng của tình âu yếm, Thiện không rõ đó là tiếng thở dài hoan lạc hay tiếng một
giấc mơ về thở thật buồn.
Hảo thấy một dòng sông cuồn cuộn chảy, như một tấm màn lụa xanh biếc đến từ
trời, rồi sông biến thành biển từ trên cao rớt xuống người nàng. Nước sông rồi
biến thành một cánh đồng xanh. Nàng thấy một con nai tuổi còn tơ chạy trên cánh
đồng. Rồi một con báo hiện ra, mặt tươi cười. Rồi hàng rào mọc lên tua tủa bao
vây. Con nai chạy hoảng hốt, mắt nó nhìn ra xa. Bên kia hàng rào, cánh đồng
trải đến tận chân trời lãng đãng mây.
Dưới bầu trời quang đãng, chiếc tàu đậu choán một khoảng không gian. Trông
đồ sộ nhưng không thô bạo. Có lẽ vì nó màu trắng mà lại có một vệt sơn đỏ chạy
dài theo thành tàu, khiến nó có vẻ như một món đồ chơi, như một niềm vui hồn
nhiên. Một cơn gió nhẹ thổi dọc theo bến sông, lay động lá cờ trên cao.
Hảo đứng lại, vuốt tóc cho khỏi rối, và sững người nhìn quang cảnh trước
mặt. Chiếc tàu như chờ đợi, như đậu đó vì nàng. Mời gọi, thúc dục leo lên một
chuyến đi xa, xuôi theo sông nước, quên tháng ngày.
“Đi mau lên Hảo.”
“Đợi em chút nữa Thiện, nhìn kìa, đẹp không anh?”
Thiện ậm ừ không rõ rệt.
“Anh chụp cho Hảo vài tấm hình đi.”
Thiện chụp hình cho Hảo. Hảo tung tăng chạy lên xuống cầu đá bến tàu, xoay
mình tìm đủ mọi góc cạnh. Trong bóng mát, ngoài khoảng trống, nheo mắt nhìn mặt
trời buổi sáng cười thẳng vào ống kính. Hảo thấy yêu đời, yêu tất cả mọi người,
yêu Thiện, yêu sự chậm chạp và kiên nhẫn của Thiện với chiếc máy hình.
Khi tàu ra đến gần giữa sông thì nắng bắt đầu gắt. Tàu đi qua một vùng kỹ
nghệ ngoại ô thành phố. Thiện nhìn quang cảnh hai bên bờ. Ống khói nhà máy in
trên nền trời. Những cao ốc ở xa. Xe cộ chạy tấp nập. Đây là cuối thế kỷ hai
mươi. Nước Áo đã chuyển mình. Không có gì khác với nhiều thành phố kỹ nghệ ven
sông Thiện đã đi qua. Người ta có thể nghĩ đây là St Louis ở Missouri, hoặc là
Cần Thơ. Chỉ thiếu xe và building còn thì nước sông đục ngầu, nhấp nhô rẽ sóng
hai bên mạn tàu. Thiện thấy lòng vui vui. Thiện nắm tay vào thành tàu đu người
lên như tập thể dục, ngữa cổ hít không khí mát lạnh vào lòng. Thiện quay qua
Hảo:
“Giống như Bắc Mỹ Thuận há Hảo?”
Hảo không trả lời.
“Hảo biết Bắc Mỹ Thuận không?”
Hảo lắc đầu có vẻ không hài lòng. Thiện hơi ngạc nhiên, nhưng không hiểu tại
sao. Thiện tiếp tục câu chuyện.
“Hồi học Đệ Tam ở Sài Gòn anh theo một anh bạn về quê anh ấy chơi một tuần.
Quê nội ở Long Xuyên, quê ngoại ở Cần Thơ. Phải qua đò Bắc Mỹ Thuận, qua sông
Cửu Long.”
“Này Hảo này, sông này có cá sấu không?”
“Sao Hảo không nói gì vậy? Hảo có khỏe không?”
“Hảo bình thường thôi anh. Xin lỗi Thiện. Hảo mãi coi quang cảnh trên bờ nên
không để ý anh nói gì.”
“Ồ không sao. Anh cứ tưởng…”
Hai người im lặng. Thiện tiến vào trong khoảng tàu mua nước uống. Hảo đứng
im nhìn lên nền trời một lát, rồi chạy lại sắc tay trên ghế ngồi, lấy ra một
tấm bản đồ.
“Nước đây Hảo, Hảo tìm gì thế?”
“Đây vẫn còn là vùng tỉnh thành. Sông chưa ra đến miền quê. Theo bản đồ thì
có lẽ còn cả tiếng nữa.”
Thiện bỗng hiểu Hảo muốn gì. Thiện im lặng.
Tàu cứ đi, sóng đánh vào mạn tàu. Âu Châu hiện ra hai bên bờ sông. Từ Mỹ qua
Âu Châu, thế giới nhỏ đi một chút về diện tích và kích thước, khiến mọi vật
xinh xắn, ấm cúng, gần gủi với người. Mắt người có thể từ từ quan sát mọi thứ
mà không bị tấn công ào ạt bởi khối lượng của vật giới. Các cảm quan do đó chi
tiết hơn. Từ kích thước ly nước uống đến trạm xăng ven sông, dãy phố buôn bán,
vỉa hè, cao ốc. Âu Châu nhỏ đi một chút, và sặc sỡ hơn: màu vôi, sơn, quần áo.
Nhưng cũng cũ kỹ hơn: màu thời gian, rêu phong, tường đá, gạch ngói, mặt người…
Rồi tàu đi tới một khúc sông khác. Bây giờ vùng đồng quê hiện ra mát mắt.
Thiện có cảm tưởng có một sự thay đổi nơi Hảo. Một sự thay đổi rất tế nhị, như
một người chuyển sức nặng từ chân này sang chân kia cho đỡ mỏi. Mặt Hảo có một
vẻ êm vắng, giống như vui, giống như buồn. Hảo nhìn những làng mạc nhỏ hai bên
sông. Hảo nhìn những cột điện, những bảng quảng cáo gần bờ. Hảo nhìn thấy làng
mạc, đang biến thành thành phố, thấy những thành phố chạy dần vào trong xa, nơi
chân đồi, nhường chỗ cho làng mạc.
Tàu đi qua một cái đập nước. Tàu chui vào một kiến trúc giống như một ngăn
kéo lớn. Bốn bề đóng kín. Nước được bơm ra, tàu hạ thấp theo mực nước. Thiện có
vẻ thích thú, quay qua nói chuyện với Hảo. Sự tù túng giữa bốn bức tường rêu
phủ bao quanh tàu khiến Hảo cảm thấy ngột ngạt, nàng do đó đón nhận sự thích
thú của Thiện như một lối thoát. Nàng vui vẻ nói chuyện. Đó là câu chuyện giữa
hai kỹ sư, hai người được huấn luyện về kỹ thuật theo khảo hướng Tây phương,
cùng ngưỡng mộ sự chính xác, cùng nhìn thấy những tương quan trừu tượng có tính
cách cơ phận giữa các khối vật chất cụ thể, cùng quan tâm đến hiệu năng, tỷ lệ
giữa công và quả. Có lúc Hảo cảm thấy hai người không còn là một cặp thanh niên
thanh nữ, mà giống như hai người đàn ông, hoặc hai người phái tính không rõ
rệt, loại người được gọi là chuyên nghiệp trong ngành kỹ thuật của những vùng
phát triển mạnh trong xã hội, nặng lòng hướng về đời sống con người của thế kỷ
21. Tuy nhiên, ngoài những nét tương đồng trong cách thái thẩm định con tàu
trong ngăn đập nước, hai người dường như nhìn vào những điểm khác nhau trong
nội dung câu chuyện.
Trong khi Thiện thích thú nói về khối lượng và vật liệu và áp suất và sức
nặng, đè, đẩy, nâng đỡ, lấn ép nhau, những quan tâm thông thường của một kỹ sư
công chánh, thì Hảo được huấn luyện về cơ khí, thì cứ nghĩ đến những guồng máy
chuyển động các bộ phận của ngăn nước trong đập. Sự hoà điệu của các cơ phận,
cấu trúc đơn giản nhưng hiệu năng, giảm thiểu được sự thất thoát của năng lực,
diễn ra trong óc Hảo, trơn tru, nhịp nhàng. Câu chuyện của Thiện như phiến đá,
câu chuyện của Hảo như nước chảy. Khoảng cách giữa hai câu chuyện khiến Thiện
và Hảo dần dần nguội đi. Các câu đối thoại thưa dần. Các ý kiến lỏng lẻo và rời
rạc.
Đến một điểm nào đó ở phần cuối câu chuyện, khi cường độ của cảm quan yếu
đi, khi những ấn tượng phai dần, một cảm nghĩ mới hé lên trong người Hảo. Nàng
nhận ra câu chuyện như một chiếc phao. Chiếc phao đang chìm. Hảo như một con cá
mắc cạn trên phiến đá. Hảo thấy mình vừa bị tấn công bởi một đời sống khác với
dòng sông. Câu chuyện vừa qua là sự lấn lướt của kỷ thuật và thói quen, là bóng
ma của đời sống mà nàng đã cố quay lưng lại. Đó là đời sống của San Francisco
của công việc, của cuộc sống chung với Thiện… Còn nơi đây, lúc này, là một thế
giới khác, là dòng sông của nàng, là buổi chiều mặt trời lặn trên cánh đồng
xanh, là hoa thơm ngào ngạt trên tóc người trẩy hội vui bên dòng nước. Sự gián
đoạn của giấc mơ vì bóng ma mạnh mẽ của cuộc sống nàng sống tại Mỹ khiến Hảo
bàng hoàng. Nàng cảm thấy thất vọng và yếu đuối. Hảo thấy bốn bức tường quanh
tàu như nhà tù, kín gió, ngộp thở. Tiếng người ngân vang như trong hầm sâu.
“Hảo làm sao vậy? Thiện thấy mặt Hảo xanh mướt.”
“Không sao đâu Thiện. Không có gì.”
Đến đúng lúc đó thì cửa ngăn nước trước mũi tàu mở ra. Tàu tiến vào một khúc
sông mới có mực nước thấp hơn. Hảo như được giải thoát. Sông chảy cuồn cuộn,
sóng nhấp nhô, gió rạt rào trên sông rộng. Quang cảnh bờ sông đã bắt đầu đổi
khác.
Trên đồi xanh, nhà sặc sỡ đủ màu với mái nghiêng, thấp nhọn, cửa tò vò cao,
thành tường quanh co rêu phủ. Xa hơn nữa là lâu đài ẩn sau rặng cây. Hảo cảm
thấy mùi cỏ hai bên lối đi dẫn vào sân đá lách cách tiếng vó ngựa. Nàng ngồi
xuống trên hàng ghế ngoài ở cuối tàu, ngữa đầu dựa vào lưng ghế. Trời xanh,
nhưng gắt ánh nắng. Hảo nhắm mắt lại. Nàng nhìn thấy một vùng không gian màu đỏ
hồng, cảm thấy nắng ấm trên mi mắt, trên đôi gò má. Hảo tưởng tượng ra đôi tai
nàng ửng hồng dưới ánh nắng, phơn phớt lông tơ. Một cảm giác say say ngây ngất
xâm chiếm người nàng.
Rồi trời trở lại. Gió ẩm ướt đầy hơi nước. Mưa xuống. Nước mưa về với
nước sông cuồn cuộn, hoà vào dòng sông làm dòng sông phồng lên, tràn lên bờ,
tràn ngược lên nguồn, lên rừng. Mưa khắp nơi. Trên sông, trong thành phố. Trên
rừng. Trên Đà Lạt. Mưa Đà Lạt là mưa núi mưa rừng. Mù mịt, rồi ngớt dần vào
buổi chiều, với tiếng sấm sét đuổi nhau trên đồi xa. Mưa ở một phần hoang dã
của Đà Lạt. Mưa trên con đường đất đỏ lầy lội ở khu nhà biệt thự tường trắng có
lối đi đầy hoa. Mưa rơi xuống lòng người thiếu nữ mới chớm yêu đương, ngẩn ngơ
nghe tiếng sấm ì ầm ngoài xa như tiếng gọi phiêu lưu u ám. Người thiếu nữ nhìn
trời mưa như đã từ hàng trăm năm. Trời đất không bao giờ cũ. Mưa sẽ rơi như vậy
đến muôn đời. Thiếu nữ là một cô gái mới chừng 15 tuổi, mắt còn tròn, đen
nhánh, tóc còn thẳng xoả vai, trắng trẻo, má ửng hồng, ngực chớm tê vì những
khát khao vừa nhú.
Cô gái nhỏ đứng nhìn người thanh niên tuổi ngoài hai mươi từ thành phố
về chơi. Người thanh niên yêu đời, tươi cười có đôi lần thoáng thấy cô gái nhà
bên kia đường đứng nhìn mình. Mắt thanh niên bình thản, chỉ thấy một đứa bé gái
giống như các đứa bé khác ở thành phố chiều chiều rủ nhau chơi nhảy dây, giải
banh.
Cô gái nhỏ thường đứng hàng giờ tìm bóng thanh niên thấp thoáng trong
khu vườn nhà đối diện. Thiếu phụ lớn tuổi hơn người thanh niên, mặc đồ đen, mặt
trắng xanh như người bệnh ở trong nhà quá lâu. Thấp thoáng hai người cười đùa
bước ra lối đi, đưa mắt nhìn về phía đường cái. Cô gái đưa tay lên chùi vội lớp
son vụng về lần đầu tiên tô thử trên môi.
Rồi mưa xuống mờ mịt, gió lồng lộng từ rừng núi đi về. Những vũng nước
nơi các ổ gà đất đỏ sủi tăm, vết bánh xe taxi lầy lội. Con dốc đường Duy
Tân ra phía bờ hồ trơn trợt. Cô gái nhỏ bước đi, cõi lòng tan nát. Bờ hồ phẳng
lặng, trắng xoá dưới mưa. Sáng hôm đó người thanh niên ra về. Thiếu phụ đứng
dưới mưa chào từ giã. Thanh niên bỏ chiếc va li nhỏ vào xe rồi leo lên, đóng
cửa xe, quay kính xuống chào thiếu phụ. Bên kia đường, cô gái nhỏ nghẹn ngào
muốn tiến ra giơ tay vẫy chào, nhưng không dám. Cô gái biết mình đang khóc
nhưng không đưa tay chùi nước mắt vì nước mưa chan hoà trên mặt. Môi thoáng một
vị mặn, không rõ của nước mắt hay dư vị của núi rừng.
“Dậy đi Hảo, trời mưa”
Hảo giật mình choàng tỉnh, thấy Thiện đang lay vai nàng và thấy mưa rơi trên
mặt. Hảo theo Thiện rảo bước vào dưới mái che trên boong tàu. Thiện ân cần.
“Hảo đang ngủ thì mưa… Hình như Hảo nằm mơ, và khóc trong giấc ngủ. Hảo có
làm sao không? Hảo mơ thấy gì vậy?”
“Không, Hảo không sao. Hảo cũng quên không nhớ giấc mơ ra sao. Chắc mơ hồi
nhỏ nghịch bị bố đánh đòn rồi khóc nhè.”
Thiện cười xoà. Hai người đứng nhìn mưa, Hảo bàng hoàng. Gió thổi mưa bụi
đến bám trên tóc nàng. Thiện kéo Hảo vào sâu hơn dưới mái che cho gió khỏi tạt
mưa ướt. Nhưng Hảo lại tiến ra, đến chỗ biên giới của mưa bụi và nơi khô ráo.
Hảo ưỡn ngực hít mưa vào lòng. Tóc bay lồng lộng, Hảo nhìn sững ra sông, nhìn
về miền đất con người hai bên bờ mờ mịt sau màn mưa. Nước mưa hoà với nước sông
như muôn vạn người ríu rít trở về nhà, rồi gối đầu lên nhau cùng trôi ra biển.
Khi tàu ghé vào một thành phố nhỏ thì trời đã tạnh mưa. Thành phố nằm bên
một khúc quanh của dòng sông. Hoa nở khắp nơi. Bên kia dãy phố sầm uất ven sông
là nhà cửa thoai thoải trên sườn đồi. Cả thành phố bị bao phủ bởi sự buồn bã khắc
khổ của một lâu đài sừng sững trên một ngọn đồi cạnh thành phố, nhìn ra khúc
quanh của dòng sông. Sự tương phản giữa những vườn hoa đón chào ven sông và
khối tường đá u uất lạnh lùng trên đồi khiến Hảo cảm thấy một sự băn khoăn khó
định nghĩa.
“Lên bờ làm gì em, sao không về Vienne luôn.”
“Hảo muốn ghé thăm tỉnh cho biết. Hảo muốn ghé lâu đài kia.”
“Không có gì ở đây cả. Tỉnh này không có tên tuổi gì trong sách hướng dẫn du
lịch. Anh nghĩ lâu đài kia cũng không có gì đặc biệt. Mình có định ghé đây đâu.”
“Đi du lịch phải có chút phiêu lưu trong đó. Nếu cái gì cũng chắc thì mất
thú.”
“Anh sợ muộn giờ. Lỡ chuyến tàu này phải đợi chuyến kế tiếp, hoặc phải đi xe
lửa thì đêm mới về đến thành phố. Tối nay mình đã đặt chỗ sẵn ở Vienne rồi. Ăn
tối rồi đi nghe nhạc.”
“Thì tối mai đi ăn rồi nghe nhạc ở Vienne cũng được vậy.”
“Tuỳ Hảo, sao cũng được.”
“Thôi được rồi, nếu Thiện muốn, bây giờ mình ở đây, đợi tàu chạy vậy.”
“Mình lại cãi nhau rồi. Thiện sorry… Hảo đúng… không, thật đó mà. Thiện muốn
lên bờ lúc này. Đi thăm tỉnh.”
“Thiện chắc không?”
“Dĩ nhiên.”
Người đàn bà nhìn sững Hảo. Cái nhìn như một cái gì đen và to ập đến. Người
đàn bà xấu xí và to lớn. Trông như một mụ phù thủy đứng tại ngưỡng cửa của một
lâu đài trên vách núi. Sừng sững hét vào khoảng không gian quạ bay đầy trời
xung quanh. Hảo bất giác lùi lại sợ hãi, chiếc máy hình đưa lên ngực như để tự
vệ. Người đàn bà nói to, một chuỗi âm thanh tức giận ùa ra từ cổ họng. Bà ta
tiến lại Hảo, chiếc dù nhỏ trên tay bà xỉa xói như một lưỡi dao. Hảo lùi lại nữa,
ấp úng bằng tiếng Anh.
“Tôi không hiểu bà nói gì”
Người đàn bà dường như hiểu. Bà ta nói tiếng Anh bằng một giọng nặng nề. Thứ
tiếng Anh không đúng văn phạm mà các thủy thủ thường dùng tại các hải cảng lớn.
“Cô muốn gì? Cô chụp hình nhà tôi làm gì?”
“Tôi xem… tôi là khách du lịch… nhà bà trông rất lạ…”
Người đàn bà nhổ nước bọt xuống đất và thốt ra một tràng tiếng địa phương,
rồi xoay qua tiếng Anh, mắt nhìn chòng chọc vào Hảo:
“Cô đi khỏi đây ngay. Nơi đây là nhà riêng. Đây không phải là nước Mỹ… tiền
bạc… chụp hình…”
Đúng lúc đó Thiện chạy tới. Hảo nắm tay Thiện bỏ đi.
“Chuyện gì vậy Hảo. Đang đi ngoài phố quay qua quay lại mất dấu. Thiện tìm
muốn hụt hơi. Bà già đó muốn gì?”
Hảo lắc đầu, không trả lời.
Đoàn Văn Xuyên
Nguồn: VĂN, số 57, tháng 3-1987