Phần 2
ĐOẠN TRƯỜNG TÂN
THANH VÀ KIM VÂN KIỀU TRUYỆN
ĐOẠN TRƯỜNG TÂN
THANH
Như đã bàn ở phần 1, Nguyễn Du chỉ lấy tích truyện về 3 nhân vật, trước và
sau một trận đánh vài giờ xảy ra thời nhà Minh để tạo nên một tác phẩm kéo
dài 15 năm, từ Bắc Kinh cho tới Phúc
Kiến lừng danh thế giới: Đoạn Trường Tân Thanh. Ba nhân vật trong tích truyện này là Thúy Kiều, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến; không có Kim Trọng, Thúy Vân, Đạm Tiên, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Tam Hợp, Giác Duyên trong
đó. Thúy Kiều chết trên sông Tiền Đường, không có chuyện Thuý Kiều sống lại. Từ câu chuyện
hết sức mờ nhạt, tầm thường
này, Nguyễn Du xây
dựng thành các tuyến tính Kiều, Hoạn Thư, Từ Hải, và chèn vào các nhân
vật đệm. Trong này, nhân vật đa tình Thúc Sinh xuất hiện để làm tăng độ phong tình cho câu chuyện đầy nước mắt của một người phụ nữ cực kỳ hiếu thảo: Vương Thúy Kiều.
Sau khi Truyện Kiều
ra đời, từ vua, quan, trí thức
đến giới bình dân đều say mê.
Riêng giới có học, bao thế hệ đã dựa vào Truyện Kiều để sáng tác, chuyển thể, vịnh, họa, cảm tác, cả bói Kiều...
Ngày nay có thể kể
đến những tác phẩm trước 1925
như sau:
- Hậu Đoạn Trường Tân Thanh, văn xuôi, chữ Hán của Tiên Phong Mộng Liên Đường Nguyễn Đăng Tuyển (Tiếc rằng chỉ còn 2 hồi, lưu ở Viện Hán Nôm)
- Kim Vân Kiều lục của một tác giả
khuyết danh, Phạm Tú Châu dịch.
- 3 hồi kịch Kim Vân Kiều của Trương Minh Ký
- Hàng trăm bài thơ vịnh Kiều của các danh sĩ Bắc Hà trong cuộc thi Vịnh Kiều do Nguyễn Khuyến chánh khảo gồm chữ Hán, chữ Nôm. Người đạt giải nhất là Chu Mạnh Trinh.
- Kịch bản Phim chuyển từ thơ Kiều sang tiếng Pháp
của đạo diễn Famechon và kịch bản tiếng Việt của Nguyễn Văn Vĩnh cho
cuốn phim Kim Vân Kiều công
chiếu tại Hà Nội năm 1924.
Về tiêu đề Đoạn Trường Tân Thanh của truyện thơ Nguyễn Du, Mộng Liên Đường Nguyễn Đăng Tuyển đã giải thích rõ ràng:
-Tiên Phong Mộng Liên Đường Nguyễn Đăng Tuyển ( 1795-1880) người Bắc Ninh, là quan văn nổi tiếng đương thời với Nguyễn Du (1766-
1820), nhỏ hơn Nguyễn Du 29 tuổi. Ông viết bài tựa đề đầu tiên
cho bản in, bản Phường, Đoạn Trường Tân Thanh năm
1820, ngay trong năm Nguyễn Du mất (tháng 9 năm 1820). Sau này ông cũng là người viết Hậu Đoạn Trường Tân Thanh bằng văn xuôi, chứng tỏ ông cũng như nhiều người khác hâm mộ Đoạn Trường Tân Thanh.
Bài của Mộng Liên Đình giải thích cặn kẻ tiêu đề tác phẩm là Đoạn Trường Tân Thanh: Giải thích nghĩa của tiêu
đề và vì sao chọn tiêu đề như vậy. Xuất xứ tác phẩm, nhắc lại như Nguyễn Du đã viết, câu thứ 7 và thứ 8:
Cảo thơm lần
giở trước đèn
Phong tình cố lục còn truyền sử
xanh
Xin được nhắc lại: Có sự lầm lẫn giữa "cổ lục" và "cố
lục" đã giải thích ở phần 1:
- Cụm từ " phong tình cổ lục" làm cho câu thơ có vẻ trang trọng, nhưng có thể dẫn tới hiểu lầm như ông Dương Quảng Hàm đã hiểu: Truyện tình cảm nam nữ trong sách xưa. Một cụm từ phổ biến.
Các bản chữ nôm đều viết " Phong tình cố lục". (Bản của Trương
Vĩnh Ký dịch lại là
"có lúc", có lẽ thợ in sắp
nhằm chữ lục vì trong bản nôm
viết lục).
Chữ 古 cổ khác với chữ 固
cố. Cố là có, vốn có.
- Khi viết " phong tình cố lục " thì nghĩa khác: Phong
tình có sách. Đây mới là câu
của Nguyễn Du, hiệu đính bởi Kiều Oánh Mậu 1902.
Trần Trọng Kim và
Bùi Kỷ 1925 hiệu đính cuốn Kiều Oánh Mậu lại dịch cữ "cố́" thành " cổ", chắc có thể các ông nghĩ hợp nét trang trọng với vế sau: "còn truyền sử
xanh": Một sai lầm đáng tiếc. Vì thế Dương Quảng
Hàm mới hiểu như trên.
Bản dịch Vương
Thuý Kiều của học giả Phạm Quỳnh, đăng trong Nam Phong Tạp Chí số 30, tức trong năm 1919, là văn bản dịch lâu nhất ta có. Phạm Quỳnh đã chứng minh cả
lời nói của Nguyễn Du :
"Phong tình cố lục " và đề từ của Mộng
Liên Đường: Truyện Thuý
Kiều chép ở lục Phong tình, chuyện Phong tình nay cũng đã cũ rồi.." là có thật. Dưới đây là 3 trang bản dịch Vương Thuý Kiều trong Nam Phong Tạp Chí:
(hình trang bản dịch Vương Thuý Kiều trong
Nam Phong)
Trong “Đề từ Đoạn Trường Tân Thanh” của Mộng Đình Liên, đoạn dưới đây nhắc đi nhắc lại lục Phong tình với nghĩa là một cuốn sách cụ thể, chứ không phải “phong tình cổ lục” là thành ngữ phổ biến.
"Truyện
Thuý Kiều chép ở trong lục Phong tình, ta không
bàn làm gì. Lục Phong tình
cũng đã cũ rồi. Tố Như tử xem
truyện, thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có
tài, bèn đem dịch ra quốc âm,
đề là Đoạn trường tân thanh, thành ra cái lục Phong tình vẫn là cái lục cũ, mà cái tiếng Đoạn trường lại là cái tiếng mới vậy".
Phong Tình
lục là một mục trong tuyển tập Ngu Sơ Tân Chí của Trương Trào (1650-1707), trong
đó có bài Vương Thuý Kiều của Dư Hoài (1616-1696).
Truyện ngắn khoảng 3 trang giấy, chỉ nhắc tới nhân
vật chính là : Vương Thuý Kiều và 4 nhân vật liên quan là La Long Văn - Từ Hải - Hồ Tôn Hiến, Hoa
lão lão. Truyện viết khá, nhưng cũng chỉ vậy thôi.
Đây là trích đoạn bài viết của Tiên Phong
Mộng Liên Đường Nguyễn Đăng Tuyển:
Đề Từ Đoạn Trường Tân Than -Tiên
phong Mộng Liên
Đường Nguyễn Đăng Tuyển.
[ Trong trời đất
đã có người tài
tình tuyệt thế, tất thế nào
cũng có việc khảm kha bất bình.
Tài mà không được gặp gỡ, tình
mà không được hả hê,
đó là căn nguyên của hai chữ
đoạn trường vậy. Thế là lại có kẻ thương tiếc
tài tình, xem thấy việc,
trông thấy người, thì
còn nhìn thế nào được mà không thở than rền rĩ.
Nghĩa là
bậc thánh mới quên được tình, bậc ngu không hiểu tới tình. Tình chung chú vào đâu, chính
là chung chú vào bọn chúng
ta vậy. Cho nên phàm
người đã ít tình, tất là không có tài, chỉ nửa loà nửa sáng, sống chết trong vòng áo mũ, trong cuộc no say, dù có gặp cái cảnh thanh nhã như hoa thơm buổi sáng, trăng tỏ ban đêm, cũng chỉ trơ trơ như cây cỏ, như cá chim vậy
....
Truyện Thuý
Kiều chép ở trong lục Phong tình, ta không
bàn làm gì. Lục Phong tình
cũng đã cũ rồi. Tố Như tử xem
truyện, thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có
tài, bèn đem dịch ra quốc âm,
đề là Đoạn trường tân thanh, thành ra cái lục Phong tình vẫn là cái lục cũ, mà cái tiếng Đoạn trường lại là cái tiếng mới vậy.
…
Thuý Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm truyện Thuý Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một: người đời xưa thương người đời trước,
người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thực là một cái thông luỵ của bọn tài tử khắp trong gầm trời này vậy.
Ta lấy một thiên
mực nhạt, xa viếng nàng
Kiều, tuy lời văn quê
kệch, không đủ sánh với bức giao thiên, song đủ tỏ cái nợ sầu của hai chữ đa tình, tuy khác đời mà chung một dạ. May được nối ở sau cuốn Tân thanh của Tố Như tử, cùng làm một khúc Đoạn trường để than khóc người xưa.
Tháng
hai, niên hiệu Minh Mạng, viết
ở Thán hoa hiên đất Hạc
giang.
Tiên
phong Mộng liên đường chủ nhân. ] [Đề Từ Đoạn Trường Tân Thanh - Tiên phong Mộng Liên Đường Nguyễn Đăng Tuyển] [bản dịch của Bùi Kỷ-Trần Trọng Kim]
Bài của Mộng Liên
Đình mới giải thích cặn kẻ việc Nguyễn Du lấy tích cũ trong Phong Tình lục, một mục trong tuyển tập Ngu Sơ Tân Chí của Trương Trào, trong đó có bài Vương Thuý Kiều của Dư Hoài (1616- 1696). Tôi xin trích đoạn bài của Dư Hoài, mời các bạn đọc:
[ Vương
Thúy Kiều là
người Lâm Tri. Từ nhỏ đã bị bán vào phường hát xướng, mạo xưng họ Mã, giả mẫu gọi là Kiều Nhi, dung mạo thì xinh đẹp bậc nhất, lại thêm thiên tính
thông minh. Nàng được dẫn tới
Giang Nam, dạy hát Ngô ca thì hát Ngô ca thông thạo, dạy gảy tỳ bà Hồ thì tinh thông gảy tỳ bà Hồ. Khi thổi tiêu thành khúc thì âm thanh
trong trẻo, từng nhịp phách
du dương vang lên theo giọng
hát làm say đắm bao
nhiêu vị khách
ngồi. Kiều Nhi rất có
danh tiếng ở trong chốn Bình
Khang. Song Kiều Nhi tính
tình nhã đạm, thường tỏ ra cách
biệt, không tha thiết gì với son phấn điểm trang lẫn những môn thuật chiều chuộng khách. Gặp phải những khách buôn bụng phệ hay mấy lão thấp hèn ra giá đến ngàn vàng, nàng chỉ hững hờ liếc mắt rồi cười khinh, chứ chẳng
thèm đếm xỉa hay trò
chuyện lấy một lời. Do vậy giả
mẫu thường nổi giận và đánh mắng. May thay có một chàng thiếu niên
lén cho Kiều Nhi nhiều vàng,
bày kế thoát khỏi giả mẫu, rồi nàng tự dọn đến sống ở Gia Hưng, đổi tên
thành Vương Thúy Kiều.
Lúc bấy giờ, có người ở huyện Thiệp tên là La Long Văn, tiền tài dư dả, là một tay hào hiệp kết giao nhiều tân khách, thường qua lại với Thúy Kiều, còn gần gũi với một kỹ nữ khác tên là Lục Châu. Từ Hải người đất Việt là một kẻ hung tợn trộm cắp, bần cùng
vô lại, đang bị bọn cờ bạc bức
bách đến túng
quẫn nên một mình lẻn vào nhà Thúy Kiều ẩn náu, ban ngày không dám ra gặp ai. Long Văn làm quen với Từ Hải, khen Hải là một tráng sĩ nên nghiêng mình kết bạn, nắm tay nhau đi uống rượu đến say
sưa thỏa thích, còn sai nàng Lục Châu thân cận bên
mình ra hầu hạ. Hải cũng không
từ chối. Đang lúc men
rượu bừng lên nóng đến mang tai, Hải vén tay áo cầm chén rượu, ghé sát tai Long Văn nói rằng: Mảnh đất này không phải là nơi tôi thỏa chí, bậc trượng phu há có thể cam tâm chịu đứng sau người khác mãi mãi ư? Ngài nên
nỗ lực, tôi cũng quyết dốc sức từ đây. Mai này phú quý,
xin chớ quên nhau!. Hải khảng khái hát vang khúc bi ca, ở lại thêm mấy ngày nữa rồi từ biệt ra đi.
…
Không bao lâu, Hải nhập bọn với Oa Khấu (Nhật - NL), trở thành
một chúa tàu, thống lĩnh hùng binh trên mặt biển, nhiều lần xâm phạm Giang Nam. Năm Gia Tĩnh thứ 35 (1556),
Từ Hải bao vây quân của
Tuần phủ Nguyễn Ngạc ở Đồng Hương, Thúy Kiều và Lục Châu đều bị bắt. Hải nhìn thấy thì kinh ngạc nhưng cũng rất vui mừng, sai Thúy Kiều gảy tỳ bà Hồ để góp vui cho tiệc rượu, rồi ngày càng sủng ái, gọi là phu nhân, bắt các tỳ thiếp ra vái chào. Thúy Kiều được thương yêu hết mực, dù là quân cơ đại sự hay kế hoạch bí mật, nàng đều được phép ngồi nghe. Thúy Kiều bề ngoài thì tỏ ra thân thiết, nhưng trong lòng thì hy vọng họ thua trận, vì nàng vẫn luôn mong mỏi được về nước, dòng lệ cứ rưng rưng, thường lau mặt bằng nước mắt.
… Gặp lúc
Tổng đốc Hồ Tôn Hiến đang khai phủ ở Chiết Giang, người này
giỏi dùng binh, nhiều kế sách, muốn thu nạp Từ Hải
La Long Văn
nghe phong phanh được tin tức, tự mừng thầm vì có tình thân cố cựu với Thúy Kiều, bèn nhờ thượng khách trong mạc phủ là Từ Vị người Sơn Âm đưa tới diện kiến Tông Hiến
Tông Hiến vui mừng, làm theo kế của Long Văn, mang thêm nhiều vàng ngọc châu báu âm thầm đến biếu tặng cho Thúy Kiều. Thúy Kiều dần động lòng, đêm ngày thuyết phục Từ Hải đầu hàng. Hải nghe theo nàng
…
Hải vừa
bước ra ngoài, thấy
quan binh tụ tập đông đủ thì trong lòng đã sinh nghi. Tôn Hiến có lòng thương tiếc cho Từ Hải, không muốn giết kẻ quy hàng, nhưng bị Văn Hoa bức bách, đành hạ lệnh, sai Tổng binh Du Đại Du cho toàn
quân tiến lên. Gặp lúc trời nổi gió lớn, quân triều đình thừa cơ phóng hỏa, reo hò đánh trống và xông vào chém giết, quân Từ Hải thua to, tan chạy và bị tiêu diệt sạch. Hải vội vàng nhảy xuống nước nhưng bị bắt, chém lấy đầu, còn Thúy Kiều thì cho sống mà dẫn vào quân môn.
Tôn Hiến
bày tiệc lớn khao thưởng
các quan Tham tá, sai Thúy Kiều hát Ngô ca và mời rượu mọi người. Bọn Tham tá hoặc là quỳ trên chiếu, hoặc nhảy múa nâng chén, cùng chúc thọ Tôn Hiến. Tôn Hiến bị rượu làm cho say mèm hoa mắt, cũng vung tay múa giáo, đùa giỡn với Kiều Nhi. Đến khi tiệc loạn lên
hết thì mới thôi. Sáng hôm sau, Tôn Hiến hối hận vì đêm qua say khước, bèn đem Thúy Kiều ban thưởng cho tù trưởng Vĩnh Thuận mới về hàng. Thúy Kiều đã theo tù trưởng Vĩnh Thuận, đi tới giữa sông Tiền Đường, nàng ưu uất đập giường và than rằng: Minh Sơn hậu đãi ta như vậy, nhưng ta lại đem quốc sự đẩy chàng
vào chỗ chết. Hại chết một tù
trưởng rồi lại thuộc về một tù
trưởng khác, vậy bảo ta còn mặt mũi nào để sống ở trên đời nữa đây?. Nói xong, nàng hướng về ngọn sóng gào lên một tràng dài đau khổ, rồi lao xuống dòng nước mà chết.] [VƯƠNG THÚY KIỀU
TRUYỆN -Tác giả: Dư Hoài-người dịch: Ngô Trần Trung Nghĩa] [Vương Thúy Kiều truyện -Tác giả: Dư Hoài]
Dư Hoài dựa vào bản viết khô khan và sơ sài của Mao Khôn (1512- 1606): "Kỷ tiễu trừ Từ Hải bản mạt" để viết thêm . "Kỷ tiễu trừ Từ Hải bản mạt" nằm trong bộ sách
Trù Hải Đồ Biên của Tổng đốc đời Minh là
Hồ Tôn Hiến soạn, gồm 13 quyển; ở quyển 9 có bài "Kỷ tiễu Từ Hải bản mạt" (ghi chép ngọn ngành việc đánh dẹp Từ Hải) kể lại chuyện quân Minh đánh nhau với quân Oa vào năm Bính Thìn (1556) đời Gia Tĩnh. Mao Khôn, đã từng phục vụ trong
quân ngũ Hồ Tôn Hiến Khi Mao Khôn chết, 10 năm sau Dư Hoài sinh ra:
"Vương Thuý Kiều là kỹ nữ Lâm
Tri, đầu tiên là Kiều Nhi, giỏi hát lối mới, thạo hồ cầm. Sau tìm cách
trốn khỏi nhà xướng ca, đổi tên ở bên bờ biển. Nụy khấu đánh Giang Nam, bắt Thuý Kiều mang đi rồi trở thành áp trại phu nhân của Từ Hải. Từ Hải rất yêu quý nàng, mọi kế hoạch đều nghe theo nàng.
Quan quân phái người đến chiêu
hàng, Kiều đem nhiều việc đến
khuyên, Hải mới quyết
tâm hàng. Quan quân bố
trí kế hoạch, Từ Hải
thua chết, Thuý Kiều
cũng bị quan quân cướp.
Sau khi bị Đốc phủ làm ô nhục, Kiều bị gả cho tù trưởng Vĩnh Thuận làm thiếp. Trên đường qua
sông Tiền Đường, Thuý
Kiều than: Minh Sơn hậu đãi
ta, ta vì việc nước dụ chàng
mà bị hại. Giết một người chồng
rồi lại lấy một người chồng, còn mặt mũi nào sống nữa!
Bèn nhảy xuống sông
mà chết." [Kỷ tiễu trừ Từ Hải bản mạt - Mao Khôn]
.........
(*)
Trù Hải Đồ Biên 籌海圖編 là
bộ sách do Hồ Tôn Hiến soạn, gồm họa đồ vẽ các vùng biển thường bị quân hải khấu
Nhật xâm phạm và các kế hoạch trù định nhằm giữ gìn an ninh vùng biển. Bài Kỷ tiễu Từ Hải bản mạt 纪剿徐海本末 chép ở quyển 9 của bộ sách này là do Phó sứ Mao Khôn, thuộc cấp
theo lệnh Hồ Tôn Hiến ghi chép,
đã kể lại khá tỉ mỉ cuộc đánh dẹp Từ Hải. (Hồ Tôn Hiến - Trù Hải Đồ Biên, Cảnh Ấn Văn
Uyên Các, Tứ Khố Toàn
Thư, sách thứ 343. Đài Bắc, Đài Loan; Thương Vụ ấn thư quán, 1983 - theo Nguyễn Cẩm Xuyên)
@. Nhận xét:
- Trong truyện Vương Thúy Kiều truyện của tác giả Dư Hoài không thấy Kim, Vân, Quan, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Bạc Hạnh, Bạc bà, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Tam Hợp, Giác Duyên...
- Đoạn Trường Tân
Thanh dài 3254 câu, 22.788 từ. Truyện
Vương Thúy Kiều này ngắn chỉ 1100 từ vì khả năng tưởng tượng chỉ từng ấy. Các nhân vật Từ Hải, Hồ Tôn Hiến, chỉ xuất hiện trong đoạn cuối truyện Kiều gồm
436 câu, 3052 từ. So với
trong toàn truyện Kiều, đoạn
này chiếm 13%. Truyện ngắn của
Dư Hoài kể về Hồ- Từ - Kiều
so với trong thơ Kiều Nguyễn Du chỉ chiếm 1/3 độ dài. Vì trong Kiều thêm nhiều tình tiết như gắn bó với Từ Hải,
báo ân trả oán. So với toàn truyện Đoạn Trường Tân Thanh thì truyện của Dư Hoài độ dài chỉ chiếm 4,8%.
- Giống như William Shakespeare, đại thi hào Nguyễn Du chỉ dựa vào tích truyện cũ, ít người biết đến, đưa nỗi lòng mình vào sáng tạo ra một tác phẩm bất hủ: Đoạn Trường Tân Thanh vinh danh
cho nước Việt. Do đó Tổ chức UNESCO họp ở Paris nhất
trí thông qua Nghị quyết số
192 EX/32 trình Đại Hội đồng
UNESCO biểu quyết vinh danh đại thi hào Nguyễn Du là Danh nhân văn hóa thế giới đầu tháng 11/2013.
@ Có người thắc mắc là sao
trong ĐTTT các tên
nhân vật, xã hội đều từ China?
Tôi có ý này:
Cụ Nguyễn Du dễ dàng đổi tên Thúy Kiều bằng Hồng,
Lan, Đào , Diểm nào đó; đổi tên tướng cướp Từ Hải bằng Hai Cọp, Ba
Beo..., Hồ Tôn Hiến thành
Nguyễn Đêm, Trần Ngày vân vân, và mô tả xã hội VN. Nhưng cụ dám không? Cái "Họa văn
tự" khủng khiếp luôn treo trên đầu thời Phong kiến:
Ví dụ như
Thi Nại Am sống đời Minh, viết truyện Thủy Hử đời Tống lâu 300-400 trăm năm mà còn vướng họa
Mời đọc những đoạn sau đây:
- "Thủy Hử truyện” ra đời và nhanh chóng phổ biến ra ngoài. Minh Thái Tổ
Chu Nguyên Chương đọc tác phẩm và
vô cùng tức giận. Thấy Thi Nại
Am viết sách ca ngợi
phường “thảo khấu”, Minh Thái Tổ đã sai người bắt
Thi Nại Am giam vào ngục, đồng thời phê rằng: “Đây là cuốn
sách xúi giục dấy loạn
của người có mưu đồ tạo
phản, không trừ đi tất
gây họa về sau”. [Wikipedia]
- Vụ án Minh sử triều Thanh:
Đây là Văn nạn (họa văn tự
) thứ hai nổi tiếng khủng khiếp
ở triều đại Mãn Thanh:
Do tên cẩu nhân Ngô Chi Vinh tố giác với Ngao Bá (đại thần triều Mãn Thanh) bộ Minh Thư tập lượt chỉ là biên niên sứ nhà Minh,
không có phê phán(do Trang Kiến Long và những văn nhân khác biên soạn); vậy mà những học giả văn sĩ tham dự vào việc biên soạn bộ Minh Thư tập lượt (Minh sử) và toàn gia họ Trang mấy chục người từ mười sáu
tuổi trở lên đều bị xử trãm, còn đàn bà con gái thì phát lảng đến Thảm Dương để cho bọn kỵ binh Mãn
Châu dùng làm tôi mọi.
Vì bộ Minh sử mà nhà tan cửa nát, người chết không biết bao nhiêu mà kể. Thảm hơn nữa là bọn thợ thuyền khắc chữ, thợ ấn loát, thợ đóng sách và những chủ tiệm sách, người bán cũng như người mua, cùng người đọc sách hể điều tra ra được là xử trãm hết (Lộc Đỉnh Ký - Kim Dung)
Các "Thiên triều" China vì muốn bảo vệ vương
triều mình nên luôn luôn nghi ngờ ̀mọi người. Họ sẵn sàng tiêu diệt
những ai dám phê bình họ, tiêu diệt những mầm họa từ "trứng nước" mà họ nghi ngờ cho ăn chắc. Các
trào vua nổi tiếng trong vụ này là Minh thái tổ Chu Nguyên Chương và
Minh thành tổ Chu Đệ và nhà
Thanh.
Triều Nguyễn VN cũng không ngoại lệ khi khi vua Gia
Long triều phục nhà Thanh. Nhờ Pháp giúp, sau khi tiêu diệt Tây Sơn, vua
Gia Long vội vàng tránh Pháp
vì e rằng tư tưởng tự do từ Pháp sẽ ảnh hưởng đến triều đại mình, quay lại triều phục phương Bắc, hủy bỏ Luật Hồng
Đức, đầy tính nhân đạo, rập khuông theo bộ luật của Thanh với điều
luật Tru Di tam tộc tàn độc để răn đe dân chúng.
Chính vì thế ai mà không sợ cái "họa văn
tự". Nguyễn Du cũng
không ngoại lệ, để ngừa cái họa này, ông phải dùng tích truyện
triều Minh bên China để
viểt ra Đoạn Trường Tân Thanh.
Vì truyện xảy ra ở China nên xã hội phong tục ... phải Chinese, điều đó đâu có gì là lạ?
Đoạn Trường Tân
Thanh của cụ Nguyễn Du sáng tác gồm 3254 câu, thuộc thể thơ lục bát - quốc thi của Việt Nam. Trong một lần tổ chức kỷ niệm
sinh nhật cụ Nguyễn Du vào đầu
thế kỷ XX, cụ Phạm Quỳnh nhắc đi, nhắc lại: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn"
KIM VÂN KIỀU TRUYỆN VÀ THANH TÂM TÀI TỬ
1. Nhan đề Đoạn Trường Tân Thanh
Nguyễn Du vốn đặt
tên truyện thơ là Đoạn Trường Tân Thanh, được các bạn ông khắc in, bản Phường, phổ biến và dạy các nho sinh.
- Mộng Liên Đường Nguyễn
Đăng Tuyển đề từ có nói
đến Đoạn Trường Tân Thanh.
Ông đã giải thích Đoạn Trường Tân Thanh là “tiếng kêu mới đứt ruột”(Đã giải thích trên)
- Phạm Quý Thích lại có bài
"Thính Đoạn Trường Tân Thanh hữu cảm":
Bên cạnh nội dung truyện Kiều của Đại thi hào
Nguyễn Du, bản Liễu Văn Đường còn
có Bài tựa (bằng thơ Đường thất ngôn
bát cú) của Lãng Đường Phạm Tiên sinh - Phạm Qúy Thích, bằng chữ Hán:
"Đoạn trường tân thanh đề từ"(hoặc “Thính Đoạn trường tân thanh hữu cảm”).
Giai nhân
bất thị náo Tiền Đường
Bán thế yên hoa trái vị thường
Ngọc diện khởi
ưng mai Thủy quốc
Băng tâm
tự khả đối Kim lang
Đoạn trường
mộng lý căn
duyên liễu
Bạc mệnh cầm
chung oán hận trường
Nhất phiến tài
tình thiên cổ lụy
Tân Thanh đáo để vị thùy thương
Dịch nghĩa:
Nếu người đẹp Thuý
Kiều mà không đi đến sông Tiền Đường,
Thì nửa đời lầu xanh vẫn chưa trả xong nợ.
Mặt ngọc của nàng
đâu cần phải chìm xuống thuỷ cung,
Lòng băng
tuyết của nàng thì xứng đáng gặp chàng Kim lắm.
Giấc mộng đoạn
trường nay đã biết rõ
nguồn cơn,
Khúc đàn Bạc mệnh dứt rồi nỗi hận còn vương.
Vì một mảnh tài
tình mà ngàn năm còn luỵ,
Tác phẩm Tân Thanh này vì
ai mà thương cảm đau lòng.
(Nguồn: Dương Quảng
Hàm, Việt Nam văn học sử yếu,
Trung tâm học liệu xuất bản,
1968)
Câu 5 có 2 chữ "đoạn trường", câu cuối
của bài thơ này là:
"Tân Thanh đáo để vị thùy thương" Dương Quảng Hàm dic̣h: "Tác phẩm Tân Thanh này vì ai mà thương cảm đau lòng".
Cả hai bài,
theo tục truyền Phạm Quý
Thích đã in cùng Đoạn Trường Tân
Thanh trước 1821, giảng cho học trò,
nên mới có tập cho Minh Mạng xem. Điều này phù hợp với tục truyền của học trò ông: Bản phường - Hàng Gai Hà Nội. Cần thấy rằng học trò Phạm Quý Thích là những tiến
sĩ, cử nhân, thám hoa... Nhiều vị đã kế thừa ông làm thầy, và học trò của các vị này lại làm thầy cho đến 1919 bỏ Nho học. Cho nên nói là tục truyền nhưng
lại có giá trị vì
thời gian liên tục và không lâu.
2. Nhan đề Kim
Vân Kiều
Vì cái tên
Đoạn Trường Tân Thanh (Tiếng kêu mới đứt ruột") nhạy cảm chính trị, cũng như nội dung truyên thơ phê phán xã hội, đụng chạm đến chế độ phong kiến. Sự ra đời của nó
không thể tránh khỏi những con mắt tinh tường của vua quan đầu
thời Nguyễn. Nội dung của Đoạn Trường Tân Thanh "có độc" cho
vương triều, mặc dù đã mượn tên
chính sử Tàu và địa danh Tàu, nhưng cái tên nghe
không ổn.
Tục truyền vua Minh
Mạng ngồi uống trà và cũng đã phê bình câu "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai" khi
vua vừa mới lên ngôi năm 1820.
Có ông vua
nào muốn nghe thiên hạ ngâm nga "Tiếng kêu đứt ruột" giữa thời " thịnh thái" của mình trị vì không? Có ông vua nào thích nghe "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai" không? Có ông vua nào thích nghe những lời phê phán xã hội, suy rộng
ra là chỉ trích vương
triều của mình không?
Vua Minh Mạng
tìm các biện pháp
khắc phục một sự việc đã rồi, với mục đích làm nhẹ ảnh hưởng tác phẩm đã được tuyệt đại quần
chúng say mê: Minh Mạng tuyên triệu Phạm Quý Thích vào kinh đô năm 1821 nhưng ông cáo
bệnh (theo tiểu sử Phạm Quý
Thích) không vào triều kiến. Học
trò ông,
có nhiều người làm
quan của triều đình đã bảo vệ ông.
Không có mặt Phạm Quý Thích và Mộng Liên Đường, Minh Mạng đành đổi tên Đoạn Trường Tân Thanh ra Kim Vân Kiều ( bản VN B60 có ghi bút
tích đổi tên) và đã chỉ đạo Hàn
Lâm Viện viết thêm bình giảng truyện Kiều theo hướng làm ngơ việc phản ánh xã hội, khiến nếu ai quan tâm thì xem đó chỉ là chuyện bên Tàu
chẳng liên quan gì tới Đại Nam. Tập trung vào than tiếc và an ủi sự gian nan giữa tài và mệnh, như hình thức câu
truyện.
@. Có một nhận xét này:
Trong bản Kim Vân
Kiều Truyện, quyển 2 có ghi:
Quán Hoa Đường bình luận- Kim Thánh Thán ngoại thư. Ở Trung quốc, Quán Hoa Đường là nhà Kim Thánh Thán và bản ngoại thư của Kim Thánh Thán không có, không ai tìm thấy cả .
Trong khi đó ở Việt
Nam: Hoa Đường là hiệu của Phạm
Quý Thích, Thán hoa viên là nhà của Mộng Liên Đường Nguyễn
Đăng Tuyển, hai người đã giới
thiệu và bình Đoạn Trường Tân
Thanh của Nguyễn Du.
Sự trùng hợp lạ lùng thay!
Mới đọc trích đoạn nói về việc đổi tên liên quan đến bút tích vua Minh Mạng trong VN B60:
[...Vua Minh Mạng đổi tên Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du ra Kim Vân Kiều, đồng thời chỉ đạo Hàn Lâm viện soạn thêm các bản văn xuôi bình giảng thơ rồi duyệt và chọn 20 hồi bình giảng ghép thành một tiểu thuyết Kim Vân Kiều Truyện lấy tên Thanh Tâm Tài Tử. Tôi xin dẫn chứng 2 tư liệu quan trọng sau:
Tàng bản ký hiệu VN B60*:
Bên trong là các trang thơ Truyện Kiều chữ Nôm. Bìa sách ghi bằng bút sắt:
明命御覽(賜)(名)斷腸新聲. 金雲翹傳 (mấy chữ này viết bằng bút sắt).
Phiên
âm là:
Minh Mạng
ngự lãm (tứ) (danh) Đoạn
Trường Tân Thanh Kim Vân Kiều truyện.
Thông
thường ta hiểu là:
Minh mạng đã đọc ban ân (tứ) tên( danh) Đoạn Trường Tân Thanh: Kim Vân Kiều truyện.
Như vậy đây
là bản Đoạn Trường Tân
Thanh trình Minh Mạng duyệt và
Minh Mạng đổi tên
thành Kim Vân Kiều, có
thể có chỉnh sửa, là bản gốc của bản Kinh về sau.
Cuốn này
ắt có lưu ở Hàn Lâm Viện nên năm 1902, Kiều Mậu Oánh mới chú giải, lấy lại tên Đoạn Trường Tân Thanh, có sự kiểm duyệt của Hàn lâm kiểm thảo Ngô Thúc Dụ Thư.
…..
* Chúng tôi chưa có ảnh chụp cuốn VN B60 này, nên dẫn theo bài viết của Huy Hoàng Hoàng Phước Quyến và Lê Quang Thái, cả hai cùng trích từ Trần Văn Giáp ][Theo nhà nghiên cứu Lê Nghị]
........
@. Nhận xét của tôi:
Bút sắt thời trước chỉ các vị vương giả dùng. Vua Minh Mạng chắc được các sứ thần Pháp tặng bút sắt, nên suy ra các hàng chữ viểt bằng bút sẳt là thật sự của ông.
..........
Trong tổng thuyết
1830 Minh Mạng đã viết “Thanh Tâm Tài Tử cổ kim minh lương đề tập biên” (Tập Thanh Tâm tài tử xưa nay, vua sáng tôi hiền chọn lọc) tôi đã nói ở phần 1.
Sự kiện tổng
thuyết này đương nhiên là chỉ có quan chức liên
quan tới nội trị và
văn hoá. Nó cũng giống như
nghị quyết của ban tuyên giáo trung ương ngày nay. Tổng thuyết không có nghĩa là lễ hội công khai, giới sĩ phu cũng chỉ nghe tường thuật từ các
quan chức dự mà thôi.
Ai tiết lộ điều gì
trái lệnh vua là xử tội. Tổng thuyết không nhằm kỷ niệm thiên tài Nguyễn Du, không một lời nào đề cao Nguyễn Du rõ ràng, (Tự Đức sau này tục truyền còn đòi đánh đòn Nguyễn Du, và tổng thuyết của ông là hạ thấp Nguyễn Du)
Đến đời
Tự Đức, một lần nữa lại tổng thuyết 1871. Tự Đức kiểm duyệt truyện Kiều, ông
cũng lọc tiếp những từ ngữ mà
ông cho là phản nghịch. Cả ông
và Minh Mạng lái tư tưởng truyện Kiều đi vào ca ngợi và thương tiếc một kẻ tài hoa, làm nổi bật thuyết tài mệnh tương đố. Cố tình lờ đi những chi tiết phê phán xã hội, suy rộng ra là chỉ trích vương triều nói chung và nhà Nguyễn nói riêng. Cả hai ông đều giữ lại ngôn ngữ truyền cảm đỉnh cao hài hoà giữ dân gian và bác học.
Do vua Minh
Mạng đổi tên nên các bản in sau này đều lấy tên Kim Vân Kiều Truyện, và sau đó Tự Đức đổi Kim Vân Kiều Tân Truyện. Cuốn thơ cổ nhất được in tìm được hiện nay mang tên Kim Vân Kiều là bản in 1866 thời Tự Đức. Năm 1875 khi Trương Vĩnh Ký
chuyển ra quốc ngữ ở Saigon,
lấy tên Kim Vân Kiều,
không nhắc gì đến Đoạn Trường Tân Thanh
Tuy nhiên
Minh Mạng cũng là vị vua anh minh hơn vị cháu nối dòng Tự Đức. Ông tự nhận ông đổi tên. (Bút phê trang bìa VN B60 nói trên). Đặt biệt
trong bài Tổng thuyết ông
cũng tỏ vẻ tôn trọng tài năng của Nguyễn Du một cách gián tiếp. Một bài thuyết dưới thể phú biền ngẫu, hạn chế nhiều so với chiếu chỉ
văn xuôi. Nhưng cũng đủ để hiểu rõ ràng ý của ông: Cuộc hội thuyết này gồm nhiều người ông gọi chung là Thanh Tâm Tài Tử, trong đó có cả ông (hợp trước phủ ba
chi bút, liêu phân thiều bộc chi âm) Hai câu đó thể hiện có sự phân
công mỗi người làm một số đề tài nào đó, có thể là từ 1821, khi Phạm Quý Thích không vào Kinh
và ông đã duyệt lại Đoạn Trường Tân Thanh và đổi tên thành Kim Vân Kiều.
Cách bình giảng thơ Đoạn Trường Tân Thanh làm nhẹ ý nghìa của nó theo tôi nghĩ như sau:
Chỗ nào
Nguyễn Du nói nhân vật làm thơ thì cuốn này cho vào một bài thơ. Chỗ nào tối nghĩa như "vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề" thì lấy kỹ thuật làm tình của Kim Bình Mai mà giải thích. Chỗ nào rất hồi hộp mà Nguyễn Du chỉ giản lược:
Lệnh quân
truyền xuống nội đao
Thề sao thì
lại cứ sao gia hình
thì văn bình giảng miêu tả chi tiết
các loại gia hình độc ác vô nhân (như tôi đã trích đoạn ớ phần 1 - NL) Nghĩa là theo từng câu thơ mà thêm rồng thêm rắn cho dễ hiểu cốt truyện; cùng làm như Kim Vân Kiều giống giống Kim Bình Mai, vì vậy mới có câu: "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều"
Cách khắc phục của Minh Mạng là khôn ngoan và hiệu quả cho vương triều, nhưng để lại rắc rối cho đời
sau: Người trong nước hiểu lầm và "ai đó" tận dụng xuyên tạc.
Đến năm 1883
vua Tự Đức qua đời, triều đình Huế lúc này thực chất chỉ là bù nhìn, toàn bộ chính trường đều do người Pháp đã đạo diễn . Lúc đó một cựu quan nhà
Nguyễn, chủ bút tờ báo Đồng Văn là Kiều Oánh Mậu mới cho tái bản phục hồi tên cũ truyện thơ là Đoạn Trường Tân Thanh, có sự phụng mệnh vua đọc và kiểm duyệt của 3 cộng tác và Hàn Lâm
kiểm thảo Ngô Thúc Dụ Thư. Thực ra, phải coi bản Đoạn Trường Tân
Thanh do Kiều Oánh Mậu chủ trì biên soạn là cãi chính cuối cùng của đại diện triều Nguyễn, chứa đựng nội dung trung
thực nhất: Ghi đúng tên, nguồn gốc của Truyện Kiều. Nói rõ hơn là khẳng định Đoạn Trường Tân Thanh có
dính líu tới Phong Tình
Lục của Dư Hoài và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Tử không phải là nguồn gốc truyện Đoạn Trường Tân Thanh
Thực chất cuốn
mà ngày nay bạn đọc thấy
ghi: Kim Vân Kiều truyện
-Thanh Tâm Tài Nhân - Nguyễn Duy Ngung và Nguyễn Đỗ Mục dịch là kết hợp ba tác phẩm
khác nhau: thơ vịnh của
Chu Mạnh Trinh để đầu hồi + dịch văn xuôi Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Tử+ lời bình của Kim Thánh Thán ( không hề tìm ra cuốn lời bình Kim Thánh Thán ở đâu!).[Theo nhà nghiên cứu Lê Nghị]
Về việc ghi đúng tên gốc của Truyện Kiều tôi đã giải thích rõ trong bài viết " Về Nhan Đề Gốc Của Truyện Kiều" [1]
Tập hợp các
bài viết bình giảng văn xuôi xen thơ minh hoạ sát theo tình tiết, theo lời thơ Nguyễn Du được đặt tên là
" Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Tử"
như là một tiểu
thuyết chương hồi. Như vậy Thanh Tâm Tài Tử là người Việt Nam . Mục đích chính nhằm đánh lạc hướng tâm sự "ưu thời uất thế" của Nguyễn Du - chỉa
mũi nhọn vào đương triều và xã hội đương
thời sau bao năm trải nghiệm và so sánh với xã hội Trung Hoa ông đã tận mắt chứng kiến trong đợt đi sứ năm 1813.
Nói
cách khác, không có cụ thể một một cá nhân Thanh Tâm Tài Tử nào , mà là tên đại diện cho một tập thể giảng , bình, hoạ Kiều ở Đại Nam như đã bàn rõ ớ phần 1.
Về
Thanh Tâm Tài Tử: Ở đây cũng nên giải nghĩa "tài tử" là cụm từ thông dụng để chỉ những người yêu văn hoá văn nghệ không quan trọng danh tính, những người có tâm hồn phóng khoáng, thích tụ họp với nhau. Đến ngày nay còn
lưu lại trong cụm tử “ đờn ca
tài tử”. Còn
Thanh Tâm có thể dùng
chơi chữ phiên thiết kết lại là tình. Cũng có thể hiểu là tâm trong sáng, vô tư. Biết đâu chọn cái tên Thanh Tâm Tài Tử cũng do gợi ý từ câu trong đoạn kết: “ chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Dầu lý giải kiểu nào cũng là cái tên đẹp. Thanh Tâm Tài Tử là tên tượng trưng của những người bình giảng Kiều, kể cả vua. Giống với ngày
nay người ta hợp thành
hội Kiều học. (Lê
Nghị)
Tại thư viện quốc
gia còn lưu một tập:
"Thanh Tâm Tài Tử minh
lương đề tập biên"
(mã số VN
240) gồm cả các bài tổng thuyết của Minh Mạng, Tự Đức, và
các tác giả khác như Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh...
Do Minh Mạng đổi
tên nên các bản in sau này
đều lấy tên Kim Vân Kiều. Cuốn thơ cổ nhất được in tìm được hiện nay mang tên Kim Vân Kiều là bản in 1866 thời Tự Đức. Năm 1875 khi Trương Vĩnh Ký
chuyển ra quốc ngữ ở Saigon, lấy tên
Kim Vân Kiều, không nhắc gì đến Đoạn Trường Tân Thanh.
Tổng Từ của Minh
Mạng 1830 đã có tên là "Thanh
Tâm Tài Tử". Tất cả các
tác phẩm liên quan đến bình, giảng Kiều đều xếp trong tuyển tập: "Thanh Tâm
Tài Tử cổ kim minh lương đề tập biên". Thanh Tâm Tài Tử cổ kim (nghĩa là các Tác giả trước, nay và hàm ý cả sau khi tổng thuyết, bao gồm cả Minh Mạng).
Minh lương đề tập biên (nghĩa
là vua sáng tôi hiền tuyển chọn).
Theo đó thì các cuốn A953,
Kim Vân Kiều lục và mọi cuốn , mọi thể loại khuyết danh đều gọi
là của Thanh Tâm Tài Tử
@. Vài nhận xét thêm:
- Hình như tên Kim
Vân Kiều bắt chước cách đặt tên của truyện ba nàng dâm nữ, mỗi nàng một kiểu: Kim Bình Mai . Đó là tên một cuốn sách hư cấu nổi tiếng in năm 1610. “Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề “ là kỹ thuật làm tình của 3 nàng này với Tây Môn Khánh.
- Trong khi Kiều và Từ Hải chết năm 1556 là nhân vật chính sử, và truyện Kim Vân Kiều nếu do Thanh Tâm Tài Nhân là Từ Vị (1521 -1593) viết thì lẽ nào
tác giả chết năm 1593 lại bắt chước
7 chữ 8 nghề theo cuốn sách viết sau đó 17
năm? Đó là chưa nói đến nhiều lý
do để bài bác luận điểm Thanh Tâm Tài Nhân là Từ Vị. Không hiểu vì lý do gì mà các ông
học giả nói Thanh Tâm Tài Nhân là Từ Vị? Sẽ bàn lại rõ vụ này ở phần 3) [Theo nhà nghiên cứu Lê Nghị]
Nói khẳng định là Đoạn Trường Tân Thanh
có dính líu tới Phong Tình Lục của Dư Hoài, còn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Tử không phải là nguồn gốc truyện Kiều
Nguyễn Du, chỉ là những bài bình giảng văn xuôi phát xuẩt từ truyện thơ Đoạn Trường Tân Thanh
Sự kiện tổng thuyết
này đương nhiên là chỉ có
quan chức liên quan tới nội trị và văn hoá. Nó cũng giống như nghị quyết của ban tuyên
giáo trung ương ngày nay vậy. Tổng
thuyết không có nghĩa là lễ hội
công khai, giới sĩ phu cũng
chỉ nghe tường thuật từ các quan chức dự mà thôi. Ai tiết lộ
điều gì trái lệnh vua là
xử tội! Tổng thuyết không nhằm kỷ niệm thiên tài Nguyễn Du, không một lời nào đề cao Nguyễn Du rõ ràng, (Tự Đức sau này tục truyền
còn đòi đánh đòn Nguyễn Du, và
tổng thuyết của ông là hạ thấp Nguyễn Du)
Cách khắc phục của
Minh Mạng là khôn ngoan và hiệu quả cho vương triều nhưng để lại cái họa cho đời sau: Người trong nước hiểu lầm và
gián điệp văn hoá tận dụng xuyên tạc.
Mời đọc trích đoạn này từ nhà nghiên cứu Lê Nghị:
Năm 1830 Minh
Mạng tổ chức tổng thuyết Kim Vân Kiều truyện ( tức Đoạn Trường Tân Thanh) và
nêu lên mục đích của cuốn bình giảng Đoạn Trường Tân Thanh viết bằng văn xuôi. Sự kiện này Minh Mạng đã viết trong “Thanh Tâm Tài Tử cổ kim minh lương đề tập biên” ( Tập Thanh Tâm tài tử xưa nay, vua sáng tôi hiền chọn lọc. So ảnh trang đầu bên dưới)
Trong đó
có nói lý do tuyển chọn tập :
Hà do
trùng phát u quang, bổ khuyết
nhi thành tín sử ( vì
sử sách xa mù, nên bổ khuyết để căn cứ làm tin).
Đoạn giữa
bài thuyết chủ yếu nói
đến thân phận nàng Kiều, đồng cảm và an ủi với tài và cảnh luôn xung đột, nửa Khổng nữa Phật.
Đoạn kết lại kết
lần nữa nhấn mạnh:
Nại hà:
Ngọc
nhan bất tác, trúc hãn nan bằng
Tài tử tình thư, cánh lạc ư kim ngọc tượng chi ngoại
Giai nhân
tâm sự, tẫn phó ư
phong sương binh hỏa chi dư
Thánh
Thán bất phùng, hàn
yên tán mạn
Hoa Đường dĩ
viễn, phá bích tiêu điều
Sở đương mịch
kỳ di biên, cáo chư đồng
chí
Truyền
thân tả chiếu ly tảo
trích hoa
Hoá công họa công, hợp trước
phủ ba chi bút
Thiên thế bách thế, liêu
phân thiều bộc chi âm
Thượng
dĩ hoàn luân đài kiểm
điểm chi sơ tâm
Hà dĩ bị nghệ uyển bình chướng chi giai thoại
Diệc cổ kim
lai tài bình nhất vận
sự nhĩ.
( Minh Mạng tổng
thuyết)
Tạm dịch
nghĩa:
Ngặt nỗi:
Người ngọc chẳng
gặp, sử xanh khó làm bằng chứng
Sách
tình của tài tử (thì) chỉ là phủ bên ngoài ý vàng ngọc
Tâm sự giai nhân cứ đổ cho thời gian, chiến tranh hủy hoại
Thánh
Thán (1) chẳng gặp, khói sương mờ mịt
Hoa Đường (2)
đã khuất , tường vách
tiêu điều
(Vì vậy) cần biên soạn để lại, thống nhất ý chung
Nghĩa đen nghĩa bóng, tránh lầm xấu tốt.
Trời với người
hợp sức múa bút búa rìu cho rõ
Trăm tới
ngàn năm phân bàn bật
tiếng thơ
Trước là
để hợp tâm đầu người đã khuất
Sau góp
thêm bình luận chuyện văn
chương
Tự xưa tới nay
bàn sao nghe cho tốt đẹp.
Mở đầu là
Thanh Tâm Tài Tử cổ kim, kết
thúc là Diệc cổ kim
lai cho thấy không phải
là một Thanh Tâm
Tài Tử, không phải là một tác giả mà là tập hợp nhiều người, người Việt Nam.
.........
(1) Thán hoa viên là nhà của Mộng Liên Đường Nguyễn Đăng Tuyển
(2) Hoa Đường là hiệu của Phạm
Quý Thích
(Hình Tổng thuyết Minh Mạng -trang trong - 1830)
Từ thời vua Minh
Mạng đến đầu thế kỷ 20 đã có ba thế hệ thi gia Việt Nam viết về Kiều, tổng hợp thành 3 thi tập.
Mời cảc bạn đọc trích đoạn sau đây của ông Hoàng Hải Vân:
[... Tập đầu tiên soạn khi Minh Mạng mới lên ngôi (1820) gồm những bài thơ xướng và họa bằng chữ Hán dựa theo từng hồi của Kim Vân Kiều truyện, do Phụ chính đại thần Hà Tôn Quyền chủ xướng, đến năm Minh Mạng thứ 11
(1830), đích thân nhà vua viết một bài Tổng
thuyết cho thi tập, cũng bằng chữ Hán. Vào năm 1871, tập tiếp theo do Tự Đức chủ xướng, đích
thân nhà vua làm các bài thơ xướng cho mỗi hồi và viết lời tựa (Tổng từ)chung cho thi tập. Tập thứ ba ra đời vào cuối thế kỷ 19, có Chu Mạnh Trinh và Nguyễn Khuyến tham gia. Những bản chép
tay các tập thời Minh Mạng và
Tự Đức mang tên
"Thanh Tâm tài tử cổ kim
minh lương đề tập biên" (nghĩa là : Các bài của các tài tử vô tư xưa viết, nay nhân vua sáng tôi hiền tập hợp lại - NL) hiện cũng được lưu giữ
tại Thư viện quốc gia Hà Nội, ký hiệu VNV
240. - Hoàng Hải Vân...] [Cần công bằng với Thanh Tâm Tài Nhân - Hoàng Hải Vân][2]
***
Tóm lại, Việt Nam thời Minh Mạng 1830 có một truyện thơ Kiều của Nguyễn Du bị đổi tên là Kim Vân Kiều, và một cuốn văn xuôi bình giảng thơ Kiều: Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Tử, tập hợp 20 bài bình giảng,
cuả nhiều người do vua Minh Mạng tuyển chọn soạn ra.
(Còn tiếp phần 3: Kim Vân Kiều Truyện Thanh Tâm Tài Nhân )
Nguyên Lạc
....................
Ghi Chú:
[1] Về Nhan Đề Gốc Của Truyện Kiều - Nguyên Lạc
[2] Cần công bằng với Thanh Tâm Tài Nhân - Hoàng Hải Vân
Mời
xem:
Đề Từ Đoạn Trường Tân Thanh - Tiên phong Mộng Liên Đường Nguyễn Đăng Tuyển
Vương Thúy Kiều truyện -Tác giả: Dư Hoài
Kim Vân
Kiều Lục - Phạm Tú
Châu