Người bạn chuyển cho một cái clip gồm những bức tranh hí họa
mô tả những cảnh trong đó smartphone nằm lọt thỏm trong lòng bàn tay của mỗi
nhân vật trong tranh/hình nhưng lại chiếm ngự mọi người mọi sinh hoạt. Lời chú bằng
tiếng Pháp nhưng là chuyện chúng ta thấy hằng ngày ở Mỹ và hầu như mọi nơi trên
thế giới. Những hoạt cảnh cười ra nước mắt. Song không khỏi làm người xem suy
nghĩ về những biến đổi trong đời mỗi chúng ta do chiếc điện thoại thông minh
này, nói riêng, và kỹ thuật cao, nói chung, mang lại.
|
Trái, đọc tin năm 1996 và 2018. Phải, bà mẹ năm 1996 với đứa
con mải chơi đá bóng: “Vô nhà ăn cơm rồi còn làm bài!” Bà mẹ 2018 với thằng
con suốt ngày chơi game trên điện thoại: “Ra ngoài chơi!”
|
|
Trái, cửa vào thư viện miễn phí so với cửa vào nơi có đường
kết mạng miễn phí. Phải, “A!! Điện thoại di động!!! Cái này khiến ta gần với
người ở xa nhưng lại làm ta xa với người ở ngay bên cạnh!!”
|
Người
bạn chuyển loạt hí họa viết, không thể chính xác hơn: "Trong suốt cuộc đời
80 năm của tôi, chưa bao giờ tôi thấy một hiện tượng lạ như cái smart phone của
thời đại hiện nay. Tôi cũng chưa bao giờ chứng kiến hoặc nghe nói về một sản phẩm
nào mà đông đảo con người trên toàn thế giới -- tôi xin nhắc lại: trên toàn thế
giới-- say mê như họ say mê cái smart phone ngày nay."
Sự tiện lợi của điện thoại thông minh ai cũng biết. Tôi
không dùng các diễn đàn thông tin xã hội, nhưng cũng như nhiều người, cá nhân
tôi đi đâu mà quên cái iPhone là như thiếu vật tùy thân – một cái bóp nhỏ trong
đựng thẻ căn cước, thẻ tín dụng và thẻ ngân hàng. Mặc dù không dùng phone khi
ra ngoài, không mở điện thọai để soát điện thư hay text, nhất là khi có mặt người
thân hay bằng hữu, nhưng tôi phải có nó bên mình vì trong đó là đủ thứ thông
tin cần thiết và cả không cần thiết.Quan trọng nhất là các chi tiết ICE (in
case of emergency/phòng hờ khẩn cấp) gồm tên và phone của mấy đứa con, các loại
thuốc theo toa bác sĩ mà tôi hiện dùng, dị ứng với thuốc gì, loại máu, tên và số
điện thoại của bác sĩ cá nhân, số Bảo hiểm sức khoẻ, vv. Tôi bỏ các chi tiết
này vào một cái chương trình/app, gọi là Emergency, gài sẵn trong điện thoại và
hiển hiện trên home screen để nhân viên cấp cứu có thể bấm và vào ngay mà không
cần mật hiệu trong trường hợp tôi bị bất tỉnh hay không nói được.
Smartphone, và nhỏ hơn nữa là cái smartwatch, thực ra chỉ là
sản phẩm kết tụ của một chuỗi những phát minh chưa từng có của nhân loại, khởi
đi từ kỹ thuật điện toán bắt đầu trở nên phổ biến từ thập niên 1980, và được kỹ
thuật Internet thêm sức vào giữa thập niên 1990 sau khi Chiến Tranh Lạnh chấm dứt
và Bộ Quốc phòng Mỹ (vốn vẫn độc quyền kỹ thuật này) chuyển kỹ thuật Internet
sang cho lãnh vực tư xử dụng.
Internet ra đời vì nhu cầu chuyển thông tin an toàn trong thời
Chiến Tranh Lạnh vì, khác với điện tín có thể bị chặn cắp trọn gói dọc đường,
Internet chia một thông tin thành nhiều mảnh vụn (gọi là packet) và chuyển qua
nhiều trạm (gọi là node) khác nhau của một cái mạng lưới (do đấy gọi là
Internet/liên mạng) rồi cuối cùng tới cùng một điểm đến (tức người hay nơi nhận)
và tụ lại thành một gói nguyên vẹn như khi được chuyển đi.
Trước kia người ta chỉ có thể chuyển văn bản/text qua
Internet dưới dạng điện thư/email, chưa có khả năng đính kèm/attached. Mãi tới
giữa thập niên 1990 mới có sự hình thành và hoàn thiện của cái gọi là World
Wide Web, viết tắt là WWW, và các chương trình/software (gọi là browser) giống
như một cái xe dùng để di chuyển, hay lướt trên mạng, xem được cả hình ảnh.
Browser Netscape nổi tiếng một dạo, hồi ấy phải mua, cũng như mở chương mục điện
thư phải trả tiền như Compuserve, AOL, và dịch vụ Internet dial-up. Netscape
sau bị Internet Explorer miễn phí của hãng Microsoft lấn chiếm, để rồi chính
cái browser IE này cũng bị gạt sang một bên, cũng như dịch vụ dial-up đã bị
broadband thay thế, và dịch vụ điện thư trở thành miễn phí và phải lên Web để
nhận và gửi thư, hoàn toàn miễn phí. Bây giờ đa số người xử dụng Internet dùng
Google để tìm và lướt mạng, nhờ Google có trang bị một Search engine vô cùng hữu
hiệu. Ít ai để ý tới việc Google lưu giữ vĩnh viễn những chi tiết của bạn, như
bạn đã tới những nơi nào trên mạng, tìm gì, mua gì, gặp ai. Dù bạn có mày mò
vào được tới chỗ cho phép mình xóa đi những chi tiết cá nhân đó, nhưng Google
đã lưu giữ vĩnh viễn ở kho riêng của họ, và lập hồ sơ về hành trình lướt mạng mỗi
ngày của bạn cho nhu cầu quảng cáo thương mại của họ. Cũng vậy là các diễn đàn
xã hội, như Facebook và nhiều nữa. Người nào quan tâm tới sự riêng tư của mình
thường dùng browser Firefox của Mozilla Corporation, một cơ sở phi lợi nhuận,
hoặc browser Bing của Microsoft, an toàn hơn vì những browser này không lưu giữ
thông tin về bạn.
Từ sau khi được bàn giao cho giới tư nhân, kỹ thuật Internet
phát triển như vũ bão, không chỉ tại Mỹ mà lan ra khắp nơi trên thế giới như
chúng ta đã biết. Chỉ trong vòng có một thế hệ, tức khoảng 25 năm, nhiều người,
nếu muốn, không cần phải đi ra ngoài, vẫn có thể mua sắm mọi thứ đồ dùng, kể cả
thực phẩm, trên Internet có dịch vụ giao tận nhà. Chúng ta không còn mấy ai mở
tờ báo bằng giấy ra để đọc tin tức vì đã sẵn hết cả tin từ tây sang đông từ bắc
xuống nam và cả từ… vũ trụ trên smartphone, tablet hay máy điện toán đủ loại để
bàn hay trên đùi. Ngành bưu điện xưa độc quyền của chính phủ, nay vốn đã thoi
thóp vì sự ra đời của những hãng tư nhân như UPS, FedEx, DHL, v.v… nay lại bị kỹ
thuật điện thư, online banking và nhiều dịch vụ khác lấn át. Tôi không nhớ lần
cuối tôi trả tiền bằng ngân phiếu và dán tem rồi gửi đi cách đây bao lâu vì tôi
đã sắp xếp trả tiền tự động qua banking online, đi đâu xa cả mấy tháng tôi cũng
không phải bận tâm sợ trễ một hóa đơn nào.
Vốn yêu nghề báo và đã từng lăn lộn với nó từ những ngày ở
Sài Gòn sắp từng con chữ bằng tay sang tới Mỹ dàn trang trên PageMaker,
QuarkXpress rồi InDesign, tôi chào đón kỹ thuật, song không tránh khỏi ngậm
ngùi nhìn từng bộ phận của tờ báo bị xóa bỏ, từ sắp chữ, dàn trang, và cuối
cùng nhiều tờ báo giấy dẹp tiệm, nhân viên bị sa thải. Đa số những ai còn hành
nghề là thuộc giới trẻ. Họ là những người, ngoài huấn luyện báo chí truyền thống
từ trường ốc còn thông thạo kỹ nghệ cao, đã “di tản” lên Internet, và được gọi
là “V-journalist,” tức ký giả tường trình bằng video. Họ phải giỏi không những
săn và viết tin, mà còn phải biết thu hình, cắt và ráp nối. Và cái họ điện thư
đi nạp cho chủ bút không chỉ là bản tin mà còn cả một cái viedo clip.
Tờ báo địa phương tôi đã cộng tác tới khi về hưu vào năm
2006 có tuổi trên một thế kỷ rưỡi. Phòng tin tức từ 80 nhân viên -- ngoài dàn
phóng viên và nhiếp ảnh trên dưới hai chục người, còn có cả một dàn copy
editors và một graphic desk tíu tít bận rộn mỗi đêm để kịp chuyển các trangxuống
nhà invào lúc 1 giờ sáng, nơi có dàn máy in khổng lồ lớn gấp ba, bốn cái đầu tầu
xe lửa -- nay chỉ còn trên dưới 20 người. Ngay cả phần dàn trang cũng bị khoán
cho một hãng ở tiểu bang khác. Bộ phận thư viện văn khố tin tức điện tử mà tôi
giúp gầy dựng cũng đã bị dẹp bỏ. Tôi không khỏi thắc mắc cái gì đã xẩy ra cho mấy
chục hộc tủ bằng thiếc đựng nhiều trăm ngàn clippings (những bài báo cắt ra và
lưu trữ trước khi bài vở được số hóa, tiếng chuyên môn là legacy archive/văn khố
di sản, có clippings từ cuối thế kỷ 19), và hàng trăm cuộn microfilm.
Do bị Internet hút cạn nguồn thu nhập từ quảng cáo, đặc biệt
rao vặt, trong vòng chưa tới hai thập niên mà đã có khoảng 2,000 tờ báo tại Mỹ
đã phải đóng cửa, theo bản nghiên cứu dài 104 trang của Đại học North Carolina,
tựa là “The Expanding News Desert” (Sa Mạc Tin Tức Ngày Một Lan Rộng). Nhiều
người lo ngại sự thiếu vắng của các tờ báo địa phương với dàn phóng viên có huấn
luyện trường ốc sẽ dẫn tới hậu quả không có người theo dõi canh chừng hành xử của
các học khu, chính quyền địa phương, và tham những có thể xẩy ra mà không người
theo dõi, điều tra, phanh phui.
Cũng ít ai đi thư viện mượn sách vì có thể mượn ebooks trên
Internet, hết hạn sách tự động được rút về, khỏi lo mang sách đi trả hoặc xin
gia hạn. Đọc sách trên giấy trở thành việc làm của nhiều người hoặc khó thích
nghi với kỹ thuật hiện đại hay vì mang tâm trạng "hoài cổ,” quyến luyến với
những thói quen không muốn bỏ vì sự thân quen, và các lý do tình cảm hay thực dụng
khác. May mà mỗi thư viện địa phương, hòn ngọc của mỗi cộng đồng tại Mỹ, vẫn được
duy trì, bảo vệ, dù phải cải tiến nhiều. Chứ không như số phận của nhiều tiệm
sách của tư nhân.
Cũng chẳng mấy ai đi xem phim ngoài rạp vì sự hiện diện của
những Netflix, YouTube, Hulu, Amazon Prime, Apple, và một số hãng video
streaming nhỏ khác; và vì việc có thể trang bị phòng khách hay phòng gia đình
thành một rạp hát tại gia (home theater) không tốn kém lắm. Và liệu có ai còn
nhớ tới những tiệm cho mướn phim trên băng nhựa thịnh hành một dạo, như
Blockbusters hay Video Hollywood, chẳng hạn? Có ai còn nhớ tới những floppy
disks, CDs? Và những máy chụp hình trên phim Kodak hay Polaroid? Tôi có hai cái
máy Nikon loại này, chả biết giữ để làm gì, song không nỡ vất đi vì chúng chứa
vài hoài niệm thân thương, và vì cái cảm giác vững vàng của khối kim loại tôi
có khi cầm chúng trên tay, và vì vẻ đẹp của chúng.
Sự hiện diện của những nơi mua bán trên Internet, đặc biệt của
Amazon, đã đẩy nhiều ngành nghề tới chỗ hoặc phải thay đổi hoặc phá sản. Chỉ cần
nhìn vào những dòng/chain tiệm sách lớn dần biến mất khỏi tỉnh nhà thì đủ biết.
Ở tỉnh tôi, tiếng là thủ đô của một tiểu bang đông dân và trù phú nhất nước Mỹ,
nay chỉ còn một tiệm sách lớn và cũng rất thưa thớt khách, nằm bên cạnh một rạp
hát cả chục màn ảnh cũng thưa khách không thua. Cả tiệm sách và rạp hát nằm gần
một cái shopping mall người đi xem, hay chỉ để tránh cái nóng mùa hè hay giá lạnh
mùa đông, thì nhiều, người mua chẳng mấy. Vì nhiều người đã chọn mua đồ trên mạng,
vừa tiện vừa rẻ, có khi không phải trả thuế sale nếu tiệm online không có chi
nhánh tại tiểu bang, lại miễn phí chuyên chở/free shipping. Tôi cũng có phần
đóng góp vào hiện tượng này vì là một trong những người này. Tôi thường đi tiệm
sờ mó, thử nghiệm một món đồ, thường là máy ảnh digital, hay laptop, xong về
nhà lên Internet tìm đọc các lời bình/review, thích thì xem nơi nào bán rẻ,
free shipping, có khi không thuế, và cho mình trả lại/return dễ dàng, không kỳ
nèo.
Viết báo, viết văn, xuất bản không còn là độc quyền của một
số người, nhóm, tổ chức, cơ quan có đặc quyền hay đặc lợi và cả chuyên môn.
Internet đã dân chủ hóa mọi người và ai cũng có thể có hơn “15 phút nổi tiếng”
trên YouTube, hơn cả lời tiên đoán của họa sĩ Andy Warhold cách đây nửa thế kỷ,
là “trong tương lai ai cũng sẽ nổi tiếng thế giới trong 15 phút.” YouTube là một
chỗ cho mỗi người làm cái việc hơn cả 15 phút lừng danh ấy, thượng vàng hạ cám,
mà cám nhiều hơn vàng. Vô phúc, bạn có thể nổi tiếng ngoài ý muốn, với những
hình ảnh về bạn không lấy gì làm hay ho, có khi bị hoán đổi, như có lần đầu của
một nữ nhân vật nổi tiếng trong cộng đồng Việt được photoshopped cắm trên một
thân thể người nữ khoả thân. Đòi YouTube gỡ xuống không dễ. YouTube cũng như
Facebook và nhiều diễn đàn xã hội khác, mặc dù rõ ràng là họ đang làm cái công
việc xuất bản và phổ biến, nhưng họ phủ nhận không coi mình là nhà xuất bản vốn
chịu nhiều luật lệ đã có từ lâu đời, mà nấp dưới danh hiệu một hãng kỹ thuật/tech
company, một thứ nhà phát hành, hay platform, và không chịu trách nhiệm đối với
nội dung của những gì phổ biến trên diễn đàn của họ. Và họ còn được luật pháp
liên bang che chở nữa, qua Section 230 của luật Communications Decency Act
1996, còn có tên gọi là Title V của Telecommunications Act of 1996.
Thông tin truyền thống thường bị lấn lướt bởi tin giả/fake
news mà các diễn đàn xã hội truyền đi xa và nhanh với tốc độ của ánh sáng. Người
nhận không cần biết xuất xứ từ đâu, thấy lạ, hay hạp với ý hoặc chính kiến của
mình, cứ cắm đầu chuyển đi, có khi chỉ mới đọc vài hàng thấy phải chuyển ngay kẻo
người khác chuyển trước mất. Tôi có anh bạn (đã quá cố) nguyên là một ký giả của
một tờ báo lớn ở Sài Gòn trước 1975, có tật này, nhưng thường cẩn thận viết
thêm trước khi chuyển bài đi, “Tin chưa được kiểm chứng,”như một thứ
“disclaimer” (phủ nhận) nhan nhản trên Internet hiện nay. Có 1úc tôi đã bực
mình bảo anh ta là anh đã từng là ký giả mà chuyển một tin không kiểm chứng đi
như vậy là thế nào. Anh ta chỉ nhăn răng ra cười, rồi tính nào vẫn tật nấy, giống
như tật của nhiều người mới làm quen với kỹ thuật Internet nên có nhu cầu
khoe.
Tóm lại, trên thế giới ảo, hầu như ít có ai chịu trách nhiệm
về việc mình làm, vì thật dễ dàng nấp sau lưng người khác. Điển hình là câu
chuyện tôi mới đọc gần đây trên báo The New York Times, về một bà người Mỹ tên
Renée Holland ở Philadelphia vẫn viết thư gửi quà và tiền cho một người lính Mỹ
xưng tên là Michael Chris làm quen với bà qua Facebook, nơi mà ai cũng muốn
“friend” với bạn, dù chả biết gì về nhau. Người lính này có dán hình của mình
trên trang chương mục, đó là một thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai, hai cánh tay bắp
thịt cuồn cuộn đầy tatoos, trong bộ quân phục Thủy Quân Lục Chiến tươm tất đang
selfie mình, và nhiều hình khác nữa. Bà Renée mua cả vé máy bay cho anh ta về Mỹ
thăm bà, để rồi khi bà đi đón anh ta ở phi trường với cái bảng “Welcome home”
và chờ tới người khách cuối cùng ra khỏi máy bay cũng vẫn không thấy anh ta. Hỏi
thì không có tên anh ta trên chuyến bay. Sau bà nhận được điện thư của anh ta
xin lỗi vì công vụ bất ngờ. Liên lạc lại tiếp tục, người đàn bà cả tin lại moi
móc tiền bạc, có khi lấy từ thẻ tín dụng, để cung phụng.
Người lính tên Michael Chris viết thư cho bà Renée thực ra
không hiện hữu. Cái hình trên chương mục giả này thực ra là của Trung sĩ Daniel
Anonsen, bị lấy cắp bởi kẻ gian của một nhóm ở Nigeria chuyên mở các chương mục
giả trên những diễn đàn xã hội như Facebook, Instagram, giả làm lính Mỹ đóng ở
Iraq hay Afghanistan để moi tiền của những người Mỹ, nhất là phụ nữcô độc và nhẹ
dạ.
Trung sĩ Anonsen không phải là nạn nhân duy nhất. Nhiều binh
lính và cả sĩ quan có hình trên Internet và các trang diễn đàn xã hội đã bị ăn
cắp hình như vậy. Mà cũng không chỉ mình họ bị nạn nhân hóa. Bên quân đội gửi
thư than phiền với Facebook thì họ trả lời điều kiện họ cho mở chương mục là phải
khai tên tuổi thật – mà có mấy ai khai thật đấy! Bản thân tôi chả bao giờ khai
tên tuổi thật cho những chương mục loại này trên Internet; lại càng không khai
địa chỉ thật (vì Google Earth có thể vào tới tận sân sau nhà tôi!), cũng như số
điện thoại (vì nạn quảng cáo bằng robocall bất chấp luật cấm quảng cáo gọi vào
điện thoại di động, dù không hoàn toàn tránh được).
Trở lại chuyện binh lính Mỹ bị đánh cắp hình, Facebook nói
đã điều tra cho đóng hàng trăm ngàn chương mục giả; đã đầu tư thêm vào việc kiểm
soát, như viết software chuyên rà chương mục giả; và đã mướn thêm người bằng
xương bằng thịt để theo dõi. Tuy vậy, chương mục giả vẫn phát triển, bịt chỗ này
thì ra chỗ khác. Hùng mạnh và nhiều tài nguyên như quân đội Mỹ cũng đành bó tay
vì quân đội không có thẩm quyền đối với dân sự, nên không thể truy tố ai. Mà
dân sự phạm pháp là ai làm sao biết được. Facebook nói đã làm hết mình, hứa sẽ
tiếp tục. Mà có truy ra, như tờ NY Times đã làm, thì kẻ tình nghi phạm tội ở tận
Nigeria, hay Ấn Độ hay những đâu đâu, mà chính quyền sở tại tự coi như vô can
và có nhiều việc khác quan trọng hơn. Theo tờ NYTimes, trong một loạt bài phóng
sự điều tra về hiện tượng binh sĩ có hình trên mạng bị ăn cắp dán trên những
chương mục giả, Facebook thú nhận hiện có khoảng 120 triệu chương mục giả nói
chung vẫn còn hoạt động. Đấy là chưa kể các chương mục giả bên Instagram cũng
thuộc sở hữu của Facebook, và những diễn đàn dân sự khác.
Giấc mộng của Mark Zuckenburg khi lập ra Facebook là để kết
nối hoàn cầu, như người tỉ phủ trẻ nhất thế giới này đã từng tuyên bố. Song chỉ
trong vỏn vẹn trên dưới một thập niên, giấc mộng ấy đang trở thành ác mộng,
không chỉ đối với các cá nhân, mà còn đối với các chính thể dân chủ. Điển hình
là qua cuộc bầu cử 2016. Hay tại Anh qua tấn thảm kịch vẫn còn chưa ngã ngũ
Brexit, có dính líu tới hãng Cambridge Analytica nay đã bị chính phủ Anh đóng cửa,
song không bảo đảm là sẽ không có những Cambridge Analytica khác.(Cambridge
Analytica là đề tài chính của phim tài liệu hiện đang gây sôi nổi, “The Great
Hack,” phơi bầy việc hãng này đã xử dụng thông tin cá nhân của trên 50 triệu
người dùng Facebook do chính Facebooks cung cấp, trong hai chiến dịch vận động
tranh cử của ứng cử viên Cộng hòa trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 2016 và của
phong trào Leave.EU, tức Brexit, tại Anh quốc.)
Biết tâm lý người xử dụng Internet vốn dễ cả tin, nên chính
quyền Nga của ông Vladimir Putin đã, trong cuộc vận động tranh cử Tổng thống Mỹ
năm 2016, tung ngón đòn lấy từ sách vở cộng sản qua chiến thuật
“disinformation” (thông tin thất thiệt với mục đích thao túng, gây rối, chia rẽ
và lũng đoạn), một tuyệt chiêu của cộng sản. Cũng chiến thuật này đã từng giúp
phần vào việc lật ngược vai trò xâm lược Miền Nam của cộng sản Bắc Việt thành nạn
nhân chống Mỹ cứu nước độ nào. Lần này chiến dịch của Putin còn được kỹ thuật
cao tiếp tay đắc lực nhằm lũng đoạn cuộc bầu cử Tống thống Mỹ vừa qua. Chiến
thuật họ dùng gồm sản xuất những bài bôi nhọ ứng cử viên Dân Chủ, giúp củng cố
địa vị của ứng cử viên Cộng hòa, và khai thác nhằm gia tăng sự phân hóa chính
trị và xã hội Mỹ qua hàng ngàn chương mục giả mở trên các diễn đàn xã hội như
Facebook, Snapchat, Instagram, Twitter, vv. Từ những chương mục này, họ tung
lên mạng những bài viết, hình ảnh, phim clip đã hoán sửa, nhằm vào các mục tiêu
lũng đoạn trên, kể cả nhiều bài rõ ràng là do một người ngoại quốc viết. Và nhiều
người Mỹ đã hưởng ứng, tiếp tay chuyển đi vì nghe hạp với chính kiến của mình. Trong
đó phải kể tới cả nhiều người gốc Việt, có người đã còn cặm cụi dịch ra tiếng
Việt, rồi giúp phát tán đi khắp nơi mà không cần biết thực hư thế nào. Tôi
không nhớ đã bao nhiêu lần ngồi tìm tới nguồn cội của một bản “tin” loại này bằng
Anh ngữ, và chuyển tới các bạn đã có nhã ý muốn giúp tôi “mở mang” cái nhìn. Có
một hai người bạn cũng học được tính thận trọng, trước khi chuyển bài đi để
giúp “soi sáng” bạn bè, đã thường gửi cho tôi nhờ tìm nguồn hộ, nếu đúng mới
phát tán.
Kết quả chúng ta có một nhà lãnh đạo chỉ trong hai năm đã và
đang giúp tháo gỡ toàn bộ hệ thống cơ cấu định chế đã giúp ổn định an ninh thế
giới từ sau Đệ nhị Thế Chiến tưởng đã đẩy nhân loại tới chỗ diệt vong. Cũng vậy
là những nỗ lực nhằm cứu vãn trái đất khỏi hiện tượng khí hậu thay đổi ngày một
trở nên nghiêm trọng. Và như cái hộp báu mà nàng Pandora của huyền thoại Hy lạp
nhận được và đã dại dột mở ra khiến lũ ma quỉ thoát ra ngoài, chưa bao giờ tôi
thấy nước Mỹ mà tôi yêu mến có những thành phần xấu xí, hung bạo như trong hơn
hai năm nay. Nhìn hình những người tay cầm đuốc, mặt mũi dữ dằn, miệng hô lớn
những khẩu hiệu kỳ thị trong đoàn diễn hành của những người da trắng cực hữu,
tôi không khỏi rùng mình hãi sợ. Như thể họ bước ra từ những trang sử của nước
Mỹ của nửa đầu thế kỷ 20 và trước đó, khi người da trắng còn mặc sức treo cổ những
người da đen vô tội và người ta kéo nhau đi xem như một trò giải trí. Hoặc xua
người Mỹ gốc Nhật lên xe tải nhà binh đưa tới những nơi khỉ ho cò gáy khiến họ
phải bỏ lại cửa nhà, ruộng vườn gầy dựng nên bằng mồ hôi nước mắt, sau vụ Nhật
Bản tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 măm 1942, khiến nhiều người Mỹ
đã nhìn những người gốc Nhật như kẻ thù. Tài tử George Takei của loạt phim Star
Trek vừa cho xuất bản cuốn hồi ký bằng tranh cảm động, “They Called Us Enemy/Họ
Gọi Chúng Tôi là Kẻ Thù,” (Top Shelf Productions, July 16, 2019), mô tả lại
kinh nghiệm của gia đình ông khi bị chính phủ của Tổng thống Franklin D.
Roosevelt lùa vào trại tập trung, như hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Nhật
khác.
Tất cả những đổi thay tuyệt vời và cả hãi hùng do kỹ thuật
Internet mang lại nay nằm gọn trong cái smartphone chúng ta hầu như ai cũng có
và đang cầm trên tay hay kề kề bên mình không thể thiếu. Nó theo ta chẳng những
mọi nơi chốn ta đi mà cả vào phòng ngủ, nhà vệ sinh, nếu ta không cẩn thận tự kỷ
luật mình trong việc xử dụng nó. Cũng theo ta là những cái app trong phone
không ngừng rình mò ta mà nhiều người vô tình hay không biết cách để vô hiệu
hoá chúng.
Nhiều bài báo, sách vở, phim ảnh đã đề cập tới ảnh hưởng
tiêu cực của kỹ thuật điện tử trên chúng ta, đặc biệt là trẻ nhỏ còn đang thời
kỳ phát triển. Mới ngày nào thấy một em bé cầm cái iPad hay smartphone thấy hay
hay ngộ nghĩnh. Giờ nhìn lại cũng hình ảnh ấy tôi thấy ái ngại cho bố mẹ của
em, như tôi đã ái ngại cho các con tôi nhìn con mình mất hút vào thế giới ảo.
Gần đây tờ The New York Times đi một số bài đáng quan tâm, về
sự thức tỉnh của chính những người sinh sống trong ngành kỹ thuật cao tại chính
thủ đô điện tử Silicon Valley. Họ nằm trong chăn, nên họ biết sự hiện diện của
những con rận điện tử hút máu trí tuệ và cả tình cảm của con người trong đó. Có
gia đình con còn nhỏ đã tuyệt đối không giữ hay mở smartphone quanh các em. Trước
khi mướn người trông con, tức nannies, có cha mẹ còn đòi người nhận việc phải
ký giao kèo không dùng smartphone hay tablet. Họ sẵn sàng bỏ tiền ra để gửi con
tới trường nào có thầy cô bằng người thật đứng ra lo việc dậy dỗ và chỉ xử dụng
Internet vào việc truy tìm tài liệu. Tất cả nhằm giúp con cái họ phát triển một
cách bình thường tròn vẹn trước khi chúng đủ lông cánh tinh thần để xông pha
vào trường đời hứa hẹn nhiều bão tố.
Tất nhiên không ai phủ nhận kỹ thuật cao đã và đang còn mang
lại nhiều cải thiện xã hội, môi sinh, tiếp tay đẩy mạnh các phong trào đấu tranh
cho dân chủ ở các nước thiếu tự do, nhân quyền. Chúng ta cần kỹ thuật, hiển
nhiên là như vậy. Nhưng chúng ta cần hiểu ảnh hưởng tác hại của chúng mà đề
phòng, hoặc ít ra thận trọng hơn khi xử dụng nó.
Trùng
Dương