Vì mắt kém, khó đọc tin trên iPhone, Huyến lấy xấp
giấy đã in sẵn mấy bản tin của CNN, Yahoo, BBC, VOA, Việt Báo và
Người Việt, v.v… ra khỏi xách tay đựng y phục tập thể dục rồi để
xách tay trên ghế bên phải của chàng.
Thời gian gần đây, những biến động giữa Việt Nam và
Trung cộng tại bãi Tư Chính của Việt Nam được dư luận trên thế giới
đề cập rất nhiều. Riêng Huyến, “một nửa hồn” của chàng muốn nhà
cầm quyền cộng sản Việt Nam (c.s.V.N.) phải học bài học đau thương,
đầy sắt máu từ hậu quả “đánh Mỹ ‘kíu’ nước” và “đánh cho Mỹ cút
‘Ngụy’ nhào”; “một nửa hồn kia” của chàng lại cầu mong Hoa Kỳ trở lại
Việt Nam để Trung cộng – kẻ thù truyền kiếp của người Việt Nam yêu
nước – không có cơ hội chiếm trọn nước Việt Nam.
Không ai có thể chối cãi được rằng cuộc chiến giữa
chính thể Việt Nam Cộng Hòa (V.N.C.H.) và c.s.V.N. trong hơn 20 năm, từ
1954 đến 1975, với sự viện trợ vũ khí và sự tham chiến của quân đội
Hoa Kỳ, là một cuộc chiến tự vệ rất chính đáng của miền Nam Việt
Nam – chỉ với mục đích ngăn chận bước chân tham tàn của Trung cộng trước
khi c.s.V.N. đưa Trung cộng vào lãnh thổ Việt Nam.
Trong khi V.N.C.H. và Hoa Kỳ thấy trước và cố ngăn
chận bước chân xâm lược của Trung cộng vào Việt Nam thì ông Hồ Chí
Minh và người c.s.V.N. vẫn cứ mù quáng, tàn ác, dùng vũ khí của
Trung cộng và Nga để tận diệt người miền Nam Việt Nam bằng những thủ
đoạn lừa đảo, hạ cấp và đê hèn – như ký hiệp ước đình chiến rồi
bất ngờ tấn công; dùng chiến thuật biển người khi lâm trận; giết
người hằng loạt bằng cách lén tấn công quần chúng tại những nơi đông
người – chứ không phải bằng những chiến trận có quy củ, có kỹ thuật
tác chiến.
Sau khi cuộc chiến tàn khốc trên Quê Hương Việt Nam
chấm dứt năm 1975 – đúng như mưu đồ của Trung cộng và sự thỏa mãn
bản tính tự ty của người c.s.V.N. – người Việt thấy được gì trên
giải đất hình chữ “S” thân yêu?
Ngoài việc cho phép nhiều công ty của Trung cộng khai
thác tài nguyên của Việt Nam một cách bừa bãi; mở cửa biên giới
phía Bắc Việt Nam để dân Trung cộng tự do tràn vào Việt Nam; dùng
đồng nhân tệ của Trung cộng ngay trong lãnh thổ Việt Nam; c.s.V.N. đã
và đang thực hiện những điều hoàn toàn trái ngược với chính sách,
chiến dịch, mà khởi đầu Việt Minh – tiền thân của c.s.V.N. – đã nêu
cao và triệt để thi hành trong thời kỳ chống Pháp; chỉ giữ lại
chính sách “bần cùng hóa nhân dân”.
Thật vậy! Đất nước đã “thống nhất” hơn 40 năm, biết
bao nhiêu khu đô thị và dinh thự được xây cất rất nguy nga, tráng lệ do
người Trung hoa, cán bộ, công chức cao cấp và lãnh tụ trong guồng máy
đầy ác tính của c.s.V.N. làm chủ; biết bao nhiêu nghĩa trang – cũng
tráng lệ không thua chi cung điện của người Tàu, của quan chức và cán
bộ csVN – được xây sẵn để chờ chôn lãnh tụ, quan chức, cán bộ
c.s.V.N., v.v… Trong khi đó, người dân Việt Nam bình thường thì sống
“chui rúc” ở kinh tế mới, hoặc ở những vùng hẻo lánh dưới những
mái tranh mục nát cũng liên hệ trực tiếp đến chữ “lệ”, nhưng không
phải “tráng lệ” mà là “đẫm lệ”!
Sau khi c.s.V.N. cưỡng chiếm miền Nam, người miền Nam
phải từ biệt cuộc sống “phồn vinh giả tạo” để “trải nghiệm!” cuộc
sống bần hàn dưới những mái tranh “đẫm lệ” ở kinh tế mới.
Những mái tranh “đẫm lệ” nơi kinh tế mới hoặc các
vùng quê hẻo lánh so ra cũng chẳng khác gì những túp lều tranh “đẫm
lệ” trong “vùng giải phóng” năm xưa – khi Huyến theo Bố Mẹ ra “vùng
giải phóng” để Bố của Huyến thực hiện ước nguyện chống Tây.
Huyến nhớ, buổi sáng năm xưa, đang ngồi cạnh hầm
tròn cùng với người chị – để dễ nhảy xuống hầm khi máy bay của Pháp
đến – Huyến thấy khẩu hiệu trên nền đỏ, chữ vàng, giăng ngang hai gốc
đa, đối diện với túp lều “đẫm lệ” mà Bố Mẹ và chị em của Huyến
nương náu. Trong khi lẩm nhẩm đánh vần từng chữ trên khẩu hiệu, Huyến
thấy nhiều “đồng chí” đang đập phá tan hoang ngôi chùa nhỏ nơi gốc đa.
Đập phá “tàn tích phong kiến” nơi ngôi chùa nhỏ xong,
nhóm “đồng chí” xoay sang đập phá cái miếu – có nơi gọi là cái am –
nơi nghĩa địa bỏ hoang. Xong hai “thành tích vĩ đại”, nhóm “đồng chí”
gở khẩu hiệu xuống. Lúc này Huyến mới đánh vần đến chữ cuối cùng
mà Huyến cũng vẫn không hiểu được ý nghĩa của khẩu hiệu: “Đả đảo
thực dân! Bài trừ phong kiến!”
Lớn lên, Huyến nghĩ, nếu bảo đả đảo thực dân là
đánh đuổi quân đội Pháp ra khỏi nước Việt Nam thì Huyến đồng ý và
hoan hô. Nhưng nhìn lại lịch sử, Huyến thấy, theo chân quân đội Pháp
vào Việt Nam có hai nhân vật – vị truyền giáo tên Alexandre de Rhodes
và nhà bác học Alexandre Emile Jean Yersin – mà không một người Việt nào có thể quên được công
lao rất vĩ của hai Ông đối với dân tộc Việt Nam.
Trong khi ông Rhodes và ông Yersin khác dòng máu, không
cùng ngôn ngữ, khác chủng tộc với người Việt thì đem văn hóa và tình
người vào nước Việt cho dân Việt; còn ông Hồ Chí Minh, tự xưng là
người Việt, lại đem không biết bao nhiêu đau thương, tan tóc, chia lìa
cho dân Việt kể từ ngày ông Hồ Chí Minh áp dụng chế độ sắt máu của
cộng sản để cai trị người Việt Nam!
Ông Hồ Chí Minh qua đời ngày 02 tháng 09 năm 1969.
Huyến cũng muốn để cho linh hồn ông Hồ Chí Minh yên nghỉ như triệu
triệu linh hồn khác. Nhưng, khi thấy đảng và người c.s.V.N. cứ ngây ngô
tô vẽ, sùng bái quá đáng hình tượng một kẻ sát nhân như ông Hồ Chí
Minh thì Huyến cười vang khi nhận ra hậu quả vô cùng tai hại của
chính sách “bần cùng hóa nhân dân” do ông Hồ Chí Minh phát động năm
xưa vẫn chưa mai một trong đầu người c.s.V.N.
Hậu quả tai hại này cho thấy, dù người c.s.V.N. “mua”
được bằng cấp cao thế mấy đi nữa thì sự dốt nát, mông muội cũng
vẫn không thể che giấu hoặc gột rửa được. Bằng cớ của sự ngu dốt
nằm trong khẩu hiệu này:
Nguyên văn trên khẩu hiệu là: Mừng Quốc Khánh 2/9
Mừng Ngày Mất Chủ Tịch Hồ Chí Minh.
Từ khi đủ hiểu biết, Huyến chỉ nghe và đọc tin
người không cộng sản mới vui mừng khi được tin ông Hồ Chí Minh qua
đời; nào ngờ, sau khi cưỡng chiếm được miền Nam Việt Nam, người
c.s.V.N. lại rất hãnh diện, công khai thể hiện nỗi vui mừng của “nhà
nước” và người c.s.V.N. về ngày ông Hồ Chí Minh chết, bằng khẩu
hiệu: “Mừng Ngày Mất Chủ Tịch Hồ Chí Minh”!
Ôi, đỉnh cao “trí tệ” của loài người!
Nhưng, nghĩ lại, Huyến thấy thái độ và hành động
của “nhà nước” và người c.s.V.N. vui mừng vào ngày ông Hồ Chí Minh
chết cũng đúng; bởi vì ông Hồ Chí Minh khởi động cuộc chiến chống
Pháp không phải do lòng yêu nước, thương dân Việt – như người c.s.V.N.
thường tô vẽ và ca tụng một cách lếu láo –mà ông Hồ Chí Minh đã đưa
dân tộc Việt Nam vào cuộc chiến chống Pháp đầy máu và nước mắt chỉ
vì ông Hồ Chí Minh bất mãn “thực dân” Pháp đã cách chức Bố của ông,
là ông Nguyễn Sinh Huy. (Có tài liệu ghi là Nguyễn Sinh Sắc).
Người ác độc như ông Hồ Chí Minh mà chết, bảo ai
không mừng!
Nghĩ đến đây, chợt nhớ bài phỏng vấn của đài BBC
dành cho tiến sĩ Sophie Quinn-Judge, được trích từ “Ho Chi Minh: The
Missing Years 1919-1941”, mà Huyến đã in ra sáng nay, chàng vội tìm và
lấy ra đọc:
BBC: Cuốn
sách của bà mở đầu bằng hội nghị tại Paris năm 1919 khi lần đầu tiên ông Hồ
Chí Minh – mà lúc này có tên Nguyễn Ái Quốc – được nhiều người biết tới. Vậy
trước giai đoạn này chúng ta có biết gì nhiều về hoạt động của ông, đặc biệt
là việc người cha của ông có ảnh hưởng thế nào đến ông không?
Sophie Quinn-Judge: Cha
của ông Hồ là một nhân vật rất đáng chú ý và tôi hy vọng sẽ có thêm tài liệu
nghiên cứu tiếng Việt để hiểu rõ hơn thân thế của người này. Nhưng rõ ràng là
việc người cha bị thất sủng, không còn là quan cấp tỉnh trong chế độ Pháp, đã
có tác động đến cuộc sống ông Hồ.
Bởi sau khi ông Nguyễn Sinh Huy bị miễn nhiệm tại tỉnh Bình
Định, con ông là Nguyễn Tất Thành buộc phải thôi học ở trường Quốc học Huế và
trở thành thầy giáo tại Phan Thiết. Rồi ông vào Nam và như mọi người đều biết,
ông đi Pháp năm 1911.
Nếu cha ông vẫn còn tại chức, thì có lẽ thanh niên Nguyễn Tất
Thành đã tiếp tục đi học ở Huế và sự nghiệp chống thực dân của ông có thể đã
ngả sang một hướng khác…” (https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-48829610)
Nguyên nhân chính thúc đẩy ông Hồ Chí Minh làm bồi,
làm bếp cho Tây để được sang Pháp, gia nhập đảng cộng sảng Pháp rồi
sang Trung cộng và Nga cầu viện và khởi động cuộc chiến chống Pháp
là chỉ với tính cách thù cá nhân.
Còn nguyên nhân thúc đẩy ông Hồ Chí Minh cổ xúy
“đánh Mỹ ‘kíu’ nước” và “đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào” thì như thế
nào?
Huyến lật nhanh xấp giấy và thấy bài “The
little-known story of Vietnamese communist leader Ho Chi Minh’s admiration for
the US” By Christopher Woolf với những chi
tiết rất đáng cho người Việt Nam nhận ra trình độ học thức, tư cách
cũng như đạo đức của ông giáo làng Hồ Chí Minh. (https://www.pri.org/stories/2017-09-18/little-known-story-vietnamese-communist-leader-ho-chi-minh-s-admiration-us)
Huyến lấy viết màu, gạch dưới những đoạn chàng quan
tâm nhiều nhất. “The founding father of modern Vietnam is Ho Chi Minh. He led
Vietnam's communist revolution against French colonial rule and then took
on the US. But it seems he long had an admiration for the US and repeatedly
sought the country's help in the decades before the Vietnam War.
What people might find most surprising is that he once
lived in the United States: in Boston and in New York City.
…He spent about eight years working and traveling, mostly as
a cook or a baker, but also as a dishwasher {…} it's known that he worked at
the Parker House Hotel in Boston…
As a cook there, Ho Chi Minh – the future leader of one of
the most violent communist insurgencies the world would ever see!...
So, Ho Chi Minh and his fellow Vietnamese nationalists
petitioned Wilson when he came to France for the Versailles Peace Conference in
1919. They wanted help to get their freedom from France, but were ignored.
Ho Chi Minh became a communist in the 1920s and
launched a revolution back home in the 1940s after the Japanese occupied
French Indochina during World War II. Again, he looked to the US for help…
Ho Chi Minh's admiration for the US is most clearly seen in
the language he wrote in Vietnam’s own declaration of independence, which he
issued on Sept. 2, 1945. The first line of that declaration is a direct quote
from the American version: "All men are created equal…”
Ho Chi Minh and his top general, Vo Nguyen
Giap, modeled their war to some extent on George Washington's fight
against the British…
Ông Hồ Chí Minh
đứng thứ 3 và ông Võ Nguyên Giáp đứng thứ 4 kể từ bên trái
Gần một thế kỷ qua, người c.s.V.N. đã giấu nhẹm sự
kiện ông Hồ Chí Minh từng nấu ăn, làm bồi, rửa chén cho nhà hàng
Parker House Hotel tại Boston, Hoa Kỳ; và cũng chính ông Hồ Chí Minh đã
yêu cầu Hoa Kỳ trợ giúp để đánh Pháp; nhưng bị Hoa Kỳ phớt lờ.
Vì không được Hoa Kỳ viện trợ để chống Pháp, trả
thù cho Cha – một lần nữa – ông Hồ Chí Minh lại cổ xúy toàn dân miền
Bắc “xẻ Trường Sơn”, thề “sinh Bắc tử Nam” để “đánh Mỹ ‘kíu’ nước”.
Thế thì việc ông Hồ Chí Minh đã đưa dân tộc Việt Nam
vào hai cuộc chiến khốc liệt vừa qua có phải phát sinh từ tình yêu
Quê Hương và dân tộc hay không?…”
… Dòng ý tưởng phức tạp của Huyến vừa đến đây,
Huyến nghe giọng nữ, hỏi bằng tiếng Anh:
-Xin lỗi ông, tôi có thể ngồi đây, được không ạ?
Huyến ngẩn nhìn người phụ nữ Á Đông rồi reo vui:
-Ô, bà Ngọc! Bà có gì mà phải thăm bác sĩ vậy?
-Dạ, chào ông Huyến! Tôi đi khám định kỳ thôi. Ông
trông khác hẳn những lúc tôi thấy ông trong “gym” cho nên tôi chả nhận
ra.
Huyến nhìn hai bên. Bên trái của Huyến là chiếc bàn
nhỏ để sách báo; bên phải của Huyến là chiếc ghế trống. Xách tay
của Huyến đang “nằm” trên ghế trống. Vừa lấy xách tay để xuống nển
xi-măng Huyến vừa đáp:
-Mời bà ngồi. Sorry, lúc nãy tôi không thấy nhiều
bệnh nhân như bây giờ cho nên tôi để xách tay của tôi vào ghế này.
Ngọc ngồi xuống. Huyến tiếp:
-Gặp trong “gym” chỉ cười và chào nhau chứ không nói
nhiều được cho nên tôi chẳng cho bà hay là “lục phủ ngũ tạng” của tôi
“nát bét” rồi; lại thêm một mảnh đạn còn ghim sau cổ, bác sĩ Mỹ mà
cũng không dám “đụng tới”!
-Ông bị mảnh đạn ghim vào cổ trong trận nào?
-Có trận nào đâu; bị “lãng xẹt” mới tức chứ!
-Sao bị thương mà ông gọi là “lãng xẹt”?
-Chỉ một đêm, trước khi tôi theo chiến hạm tuần tiễu
Hoàng Sa và Trường Sa thì Việt cộng pháo kích trúng nhà bên cạnh.
Nhà đó bốc cháy; nhà tôi cũng bị ảnh hưởng và tôi bị mảnh pháo
kích ghim sau cổ.
-Ô, ông là Hải Quân V.N.C.H.! Vui quá!
-Bà có vẻ có nhiều cảm tình đối với Hải Quân. Cảm
ơn bà.
-“Mấy ông lính” thuộc quân, binh chủng nào tôi cũng
thích và dành nhiều thiện cảm; riêng về Hải Quân thì hình ảnh con
tàu lênh đênh ngoài biển vắng khiến tôi nghĩ đến hai chữ “alone
together” trong tiếng Anh.
-Bà nói đúng. Những khi đến phiên trực, từ đài chỉ
huy, nhìn thủy thủ đoàn âm thầm chu toàn bổn phận của họ, tôi cảm
nhận được tâm trạng “alone together”!
-Thế là chuyến công tác Hoàng Sa và Trường Sa ông
không thể tham dự được, đúng không?
-Vâng. Không ngờ, sau chuyến công tác “hụt” đó, tôi
không bao giờ được thấy lại Hoàng Sa và Trường Sa nữa!
Là một phụ nữ ít để ý đến chính trị, Ngọc ngạc
nhiên:
-Ủa, tôi tưởng Trung cộng chiếm Hoàng Sa rồi mà?
-Đúng! Trung cộng chiếm Hoàng Sa năm 1974; sau này
Trung cộng “lăm le” tranh giành Trường Sa nữa! Để tôi tìm bài này cho
bà xem. Ai trách Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thì trách chứ tôi thấy
ông Thiệu thấy xa, trông rộng.
Chỉ một chốc, Huyến tìm ra bài Hải Quân V.N.C.H. Mở Cuộc
Hành Quân Trần Hưng Đạo 48 Tái Khẳng Định Chủ Quyền Quần Đảo Trường Sa
2-1974, tác giả Thềm Sơn Hà, rồi nói với Ngọc:
-Đây, bà đọc đoạn tôi tô màu thì sẽ biết.
Ngọc Nói “cảm ơn ông” rồi im lặng đọc: “…Lo ngại về
việc T.C. có thể tiến chiếm Trường Sa sau khi đã cũng cố Hoàng Sa (2) (cũng như
lần khai hỏa ở Hoàng Sa, không cần hội ý trước với Hoa Kỳ), Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu đã làm cho Hoa Kỳ sững sốt khi vào ngày 30 tháng 1-1974 (10
ngày sau khi mất Hoàng Sa), ông đã ra lịnh cho Hải quân V.N.C.H. mở cuộc hành
quân Trần Hưng Đạo 48 trực chỉ Trường Sa đổ quân chiếm đóng thêm 5 đảo (3)…
Trong ấn bản”Conway’s All the world Fighting Ships 1947-1982 – Part II ấn hành
năm 1983” đã viết về Hải quân V.N.C.H. như sau : “H.Q.V.N.C.H. đã chứng tỏ sự
dũng cảm trong tháng 1-1974. Trung Cộng đưa một tiểu đoàn xâm chiếm quần đảo
Hoàng Sa {…} Mười ngày sau đó chiến hạm Viêt Nam Cộng Hòa đã đổ quân lên quần
đảo Trường Sa vài trăm hải lý về hướng Nam để ngăn ngừa bị T.C. cưỡng chiếm”
Mặc dù đây là một quyết định rất mạo hiểm của Tổng Thống Thiệu, nhưng chính quyết
định này của ông đã nới rộng chủ quyền của Việt Nam trong quần đảo Trường Sa và
đã khiến T.C. hoản lại ý định bành trướng đế quốc của họ xuống Trường Sa cho đến
năm 1988…”
Hình trên hoangsaparacels
Ngọc vui mừng reo
lên nho nhỏ:
-Thế thì Hải
Quân V.N.C.H. đã chính thức dựng bia chủ quyền trên đảo Trường Sa từ
ngày 22-08-1956; năm 1974 Hải Quân V.N.C.H. lại đỗ quân lên đảo Trường Sa
để đề phòng Trung cộng từ Hoàng Sa kéo xuống!
-Vâng!
-Nếu bằng chứng hẳn hoi như thế này thì giữa Hoàng
Sa và Trường Sa có liên hệ mật thiết mà ít ai biết. Sự liên hệ đó
là: Đảo Trường Sa thuộc lãnh hải của V.N.C.H. từ năm 1956. Vì mất
Hoàng Sa vào tay Trung cộng, ngày 19 tháng 01 năm 1974, cho nên – 10 ngày
sau – Tổng Thống V.N.C.H. Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Hải Quân V.N.C.H.
đổ bộ lên Trường Sa để ngăn chận Trung cộng kéo xuống Trường Sa.
-Đúng vậy.
-Hiện tại tình trạng Trường Sa như thế nào, thưa ông?
Huyến im lặng, tìm trong xấp giấy in rồi đưa cho
Ngọc:
-Bà đọc đoạn này – nhất là câu cuối – của Giáo sư
Carl Thayer nói với BBC Tiếng Việt thì sẽ rõ hơn:
Ngọc lại nói “cảm ơn ông” rồi chăm chú đọc: "… Báo cáo của AMTI – Asia
Maritime Transparency Initiative – nói rằng Việt Nam đang hoàn thiện đường băng dài 1.300m, và cho lắp
đặt radar cho phép Việt Nam có thể thu phát các tín hiệu liên lạc từ các tàu,
thuyền của Trung Quốc. Tôi cho rằng đây là một cuộc chơi công bằng."
"Tôi không cho rằng
có nước nào sẽ phật lòng về động thái này của Việt Nam. Việt Nam đã ở đó từ trước
2002. Thực tế là Việt Nam đã hiện diện tại một số vị trí ở Biển Đông từ trước
Giải phóng Miền Nam, và đã có lịch sử đánh bắt, khai thác cá tại ngư trường này…"
https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-47876569
Nửa đùa nửa thật, Ngọc than:
-Cái ông Carl Thayer này! Ổng sợ ai mà ổng không dám
nói là V.N.C.H. hay là miền Nam Việt Nam mà ổng lại nói tránh đi là
“trước giải phóng miền Nam”, Trời!
Cả hai lại im lặng, cảm thấy buồn buồn. Một chốc
sau, Huyến than:
-Bên Việt Nam, Trung cộng trở lại bãi Tư Chính; tại
Hoa Kỳ, mấy người đang tìm mọi lý lẽ để “bức tử” quần đảo Trường
Sa!
-C.s.V.N. phản ứng như thế nào về sự kiện tàu Hải
Dương của Trung cộng trở lại Việt Nam, thưa ông?
-C.s.V.N. phản ứng như thế nào đối với Trung cộng về
tàu Hải Dương, tôi không cần biết; vì lịch sử cận đại đã chứng minh,
chưa bao giờ c.s.V.N. dám có thái độ bất khuất đối với Trung cộng như
Hải Quân V.N.C.H. đối với Trung cộng trong trận Hải Chiến Hoàng Sa năm
1974 – mà tôi lại rất đau lòng khi chín người trong Ủy Ban Xây Dựng
Đài Tưởng Niệm Hoàng Sa (U.B.X.D.Đ.T.N.H.S.) “bức tử” Trường Sa!
Ngọc tò mò:
-Ai bầu chín ông đó vào U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. mà chín ông
đó có nhiều quyền hạn quá vậy?
-Tôi không rõ. Nhưng, theo “tin hành lang”, chín ông
trong U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. thì có ba ông đồng ý để đảo Trường Sa lên đồ
án Hoàng Sa; còn sáu ông kia thì “bức tử” Trường Sa!
-Chỉ sáu ông Hải Quân mà “bức tử” được Trường Sa?
Thế tập thể Hải Quân để yên cho sáu ông ấy thực hành ý định “bức
tử” Trường Sa à? Vô lý!
Huyến lắc đầu, chán nản:
-Đã rã ngũ gần nửa thế kỷ rồi; bây giờ đâu ai nghe
ai nữa!
-Tôi nghĩ Hải Quân V.N.C.H. có truyền thống rất tốt
đẹp. Ngay như thời gian di tản năm 1975, Hải Quân luôn luôn nêu cao truyền
thống; thế mà bây giờ, một di tích lịch sử nêu cao gương anh dũng của
Hải Quân V.N.C.H. mà tại sao đại gia đình Hải Quân không có phản ứng
gì cả trước quyết định tạo nhiều tranh cãi của sáu ông Hải Quân đó?
Không lẽ Hải Quân đã quên rằng chính Hải Quân V.N.C.H. đã dựng bia chủ
quyền, đã trấn đóng, tuần tra và bảo vệ Trường Sa hay sao?
Huyến giải thích:
-U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. đưa ra lý do – đại ý – như thế này:
a.- Đài tưởng niệm Hoàng Sa mà để thêm đảo Trường Sa
vào nữa thì sẽ mất ý nghĩa, mất tính cách “độc tôn”!
b.- Đảo Trường Sa có “dính dấp” đến sự hèn nhát
của bộ đội c.s.V.N.; vì bộ đội c.s.V.N. được lệnh không bắn trả khi
Trung công tấn công, năm 1988. Nếu để Trường Sa lên Tượng Đài thì sẽ
bị hiểu lầm là U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. vinh danh c.s.V.N.; cũng có vài người
bảo nếu để Trường Sa lên đồ án thì phải để đảo Côn Sơn, đảo Phú
Quốc, Cù Lao Chàm, đảo Lý Sơn, v.v…lên đồ án Hoàng Sa.
-Thưa ông, nếu U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. muốn giữ tính cách
“độc tôn” của trận Hải Chiến Hoàng Sa thì chỉ cần vẽ quần đảo
Hoàng Sa và vị trí chiến lượt của các chiến hạm Hải Quân V.N.C.H.
và chiến hạm của Trung cộng là đủ – không cần vẽ trọn vẹn bản đồ
Việt Nam.
Ngược lại, nếu để đảo Trường Sa lên đồ án Hoàng Sa
mà U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. ngại bị “lên án” là vinh danh sự hèn nhát của
bộ đội c.s.V.N.; có ý “hòa hợp hòa giải” hoặc nhận tiền của
c.s.V.N., v.v… thì khi U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. vẽ trọn vẹn nước Việt Nam –
gồm cả miền Bắc Việt Nam, nơi có xác của ông Hồ Chí Minh, cả triệu
trệu xác của những người “sinh Bắc tử Nam” và những địa danh đẫm
máu dưới bước chân “oai hùng!” của bộ đội c.s.V.N. – U.B.X.D.Đ.T.N.H.S.
nghĩ gì? U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. có ý vinh danh ông Hồ Chí Minh và sự ngang
ngược, hùng hỗ, ác độc của bộ đội c.s.V.N. trong những chiến dịch
tàn ác như Mậu Thân, Mùa Hè Đỏ Lửa, pháo kích vào trường tiểu học
Cai Lậy, Con Đường Số 7, v.v… và sự đọa đày quân nhân, công chức cùng
gia đình người miền Nam Việt Nam hay không?
Còn những đảo khác như Phú Quốc, Côn Sơn, Cù Lao Ré,
v.v… không để lên đồ án Hoàng Sa cũng không sao; vì các đảo này không
trực tiếp “nằm” trong sự tranh chấp giữa Việt Nam và Trung cộng hay
bất cứ nước nào khác.
-Cảm ơn bà đã nêu ra nhiều điều rất đáng lưu tâm.
-Phản ứng của cộng đồng người Việt tỵ nạn thì như
thế nào, thưa ông?
-Vài cơ quan truyền thông đã góp ý. Tôi nghĩ, cộng
đồng người Việt tỵ nạn cũng như người Việt trong nước có quyền được
biết và góp ý trong vấn đề đảo Trường Sa bị “bức tử”. Sáu nhân vật
trong U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. không có thẫm quyền – vì sáu người này không
được công chúng bầu ra và ngân quỹ xây Tượng Đài cũng do đồng bào và
gia đình Hải Quân quyên góp chứ không phải tiền túi của sáu người này
– trong quyết định “bức tử quần đảo Trường Sa!
Im lặng. Huyến thở dài, tiếp:
-U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. mượn lời của giáo sư Nguyễn Văn
Canh để kết thúc Thông Báo Số 4. Nhưng U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. lại quên đi
những người bạn, thượng cấp hoặc thuộc cấp cùng màu áo đã đổ bộ
lên Trường Sa, xây bia chủ quyền trên Trường Sa, tuần tiểu và bảo vệ
Trường Sa từ năm 1956. Hơn nữa, khi nghĩ về hoặc thực hiện điều gì
cho Quê Mẹ không ai căn cứ vào lời của một giáo sư – dù cho giáo sư
này có bằng cấp cao nhất thế giới – mà người ta chỉ nghĩ đến Quê
Mẹ bằng tình cảm và bằng trái tim! Điều tai hại nặng nề nữa là:
Trong Thông Báo Số 4, U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. còn gọi những người không cùng lập
trường với sáu vị trong U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. là… “ngây thơ”. Đây là tĩnh
từ đầy xúc phạm!
-Tôi hiểu. Nếu ai vận động được đồng bào trong và
ngoài nước góp ý thì tuyệt quá!
-Đó chính là ước muốn của tôi.
-Nhưng phải liên lạc với ai, thưa anh?
-Bà chờ cho chút.
Huyến mở iPhone tìm. Chỉ một thoáng thôi, Huyến
cười:
-Đây rồi. Mọi người có thể liên lạc về:
U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. theo địa chỉ email: uybanxaydung@daituongniemhoangsa.org
để góp ý về sự kiện “bức tử” Trường Sa.
Huyến vừa nói ngang đây, cô y tá mở cửa, gọi: “Mr.
Nguyen”. Huyến vội vàng đứng lên.
Ngọc nhắc:
-Ông nhớ nhắn giùm với quý vỵ trong
U.B.X.D.Đ.T.N.H.S.: Nếu U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. muốn giữ tính cách “độc tôn”
của trận Hải Chiến Hoàng Sa thì U.B.X.D.Đ.T.N.H.S. chỉ cần vẽ quần
đảo Hoàng Sa, vị trí chiến lượt của các chiến hạm Hải Quân V.N.C.H.
và chiến hạm của Trung cộng là đủ – đừng vẽ bản đồ Việt Nam thì
khỏi “dính dáng” đến c.s.V.N..
-Vâng. Tôi sẽ. Hẹn gặp bà ở “gym”!
Nhìn theo nhân dáng không còn tráng kiện của Huyến,
Ngọc ngậm ngùi nghĩ đến những người từng mặc quân phục Hải Quân
V.N.C.H., từng anh dũng chống lại Trung cộng tại Hoàng Sa, từng xây bia
chủ quyền trên Trường Sa, từng đổ bộ lên Trường Sa và từng tuần tiễu
quanh Trường Sa để bảo vệ phần đất lạc loài của Quê Mẹ thân yêu!
Điệp Mỹ Linh
https://www.diepmylinh.com/