Tôi rời Đài Loan mang theo hình ảnh những đứa bé Đài gốc
Việt nheo nhóc. Và những cánh lục bình nổi trôi trên dòng kinh đen. Chuyện cô
dâu cũng như những chuyện tang thương của đất nước, có lúc bùng lên rồi cũng lắng
xuống và mất hút trong những lo toan đời sống của từng người. Nhưng mỗi ngày
trôi qua, vẫn còn đó những đêm có cô gái nằm trên nhà kho sân thượng trằn trọc
ngó chừng ra cửa, những bàn tay ngủ gục bị cắt đứt, những cuốn phim nô lệ tình
dục tiếp tục quay, và những vết tím bầm trên mắt trên môi...
*
Mỗi sáng vào khoảng 9 giờ, khi chiếc xe hốt rác trỗi bản nhạc
Für Elise chạy quanh xóm, khi cụ già ở khoảng sân um tùm cỏ bên kia con kinh đầy
rác vừa xong thế Taiji cuối cùng, và bà Hui Xin tưới xong những chậu kiểng xếp
dọc theo lề đi, thì cô gái bước ra khỏi nhà. Nhìn lên ban công gác trọ chỗ tôi
ngồi, cô gái vẫy tay cười.
Tôi gặp Trang hôm Chủ nhật, một ngày sau khi tôi đến Chung
Li. Mặt trời buổi sáng chưa qua khỏi đỉnh cây sung mà trời đã oi bức. Lúc ấy
tôi ngồi ở ghế đá cạnh đình làng, loay hoay chụp hình những người đàn bà Đài
đang thắp nhang vái lạy Quan Công. Một bóng dáng chắc chắn không phải là người
bản xứ lọt vào khung nhìn máy ảnh tôi. Bỏ máy xuống, nhìn lên tôi hỏi: em Việt
Nam hở?
Trang 26 tuổi. Lần cuối nắm tay mẹ trước khi làm cô dâu theo
ông Cheng về Đài là ngày sinh nhật thứ 18 của Trang. “Sinh nhật em dễ nhớ lắm,
ngày hai tháng mười hai.” Trang cười nói với tôi vào sáng Chủ nhật tuần
sau. “Em nhớ hồi mới qua, trời cuối năm ở đây lạnh hết biết luôn. Em dân Cà
Mau cả đời đâu biết lạnh kiểu này. Em trùm mền, nhớ má khóc cả tuần.”
Có thể nói Trang là một trong những cô dâu Đài Loan thời “tiền
trạm” và tương đối nhiều may mắn so với những cô dâu khác. Đó là theo lời của
Trang. Sáng Trang dậy lúc 6 giờ, làm điểm tâm cho ông chồng, bà mẹ chồng, hai đứa
con riêng của ông Cheng, giặt quần áo và phơi trên những sào tre gắn từ cửa sổ
chĩa ra đường. “Ngày nào cũng phải giặt chớ nếu không hổng có chỗ phơi”.
9 giờ sáng Trang rời nhà ra chợ phụ bà em gái ông Cheng bán cá đến chiều. Nấu
ăn tối, chuẩn bị sẵn cơm trưa ngày hôm sau, dọn cơm, rửa chén, quét nhà, tắm
cho bà mẹ chồng, chùi rửa nhà cầu, Trang lên giường là ngày đã qua ngày.
“Lúc đó ông chồng em ngủ mất tiêu rồi, hổng biết ổng lấy em qua đây làm gì.”
Trang cười nói. “Cứ vậy đó anh, từ thứ Hai cho tới thứ Bảy. Chủ nhật bà Li
nghỉ bán hàng nên em được nghỉ theo. Anh muốn gặp mấy đứa cô dâu với ô sin để
tìm hiểu sự tình hở? Hi hi, anh hên gặp em là thổ địa ở đây. Để tuần tới em dắt
anh đi. Chủ nhật nghe. Anh tới mà chưa thấy em thì cứ ngồi đó chụp hình mấy bà
Tàu và chờ em.”
*
Lệ và Thi là dân Long Xuyên. “Con này nó mới qua được hai
năm, tình cảnh nó cũng bi đát lắm. Lệ, mày kể cho ảnh nghe đi”. Lệ ngồi bó
gối một hồi lâu. Tôi nhìn quanh căn phòng nhỏ mà Lệ được một cô dâu khác đã bỏ
chồng ra riêng cho ở tạm. Im lặng chờ.
“Khác với chị Trang, thằng chồng của em nó còn trẻ, lái tắc
xi. Lúc mới qua nó nghỉ một ngày lái xe chở em đi chơi núi, chơi biển. Được đâu
hai tuần thì nó dắt một con nhỏ Đài khác về phòng. Sau đó em mới biết trước đây
con này là bồ của nó. Tụi nó gây lộn nhau sao đó, thằng chồng em nó nổi sùng
qua Việt Nam cưới em. Bây giờ tụi nó làm lành với nhau và thằng chồng em kéo
con bồ nó về sống chung luôn. Tối nào thằng chồng em cũng bắt em làm chuyện đó
với hai đứa nó. Rồi còn quay phim nữa. Em không chịu thì cả hai đứa nó xúm vào
đánh đập em tàn nhẫn. Lúc đó, em ở bên Đài Trung, không có điện thoại di động,
không biết tiếng Hoa, không quen ai, em không biết làm sao. Hai tháng sau thì
em có bầu”.
Những ngày khởi đầu của dịch vụ cô dâu, mỗi chú rể Đài thường
phải trả cho công ty môi giới Đài và Việt từ sáu ngàn tới mười ngàn đô. Sau khi
khấu trừ các chi phí trả cho môi giới, chi phí đám cưới, gia đình của cô dâu
còn được hai tới ba ngàn đô. Khi con số cô dâu gia tăng hơn tới gần 100 ngàn
người thì giá cả cũng theo đà đi xuống. Gia đình của cô dâu nhiều khi không được
đồng nào và chỉ mong con gái của mình có cơ hội ra nước ngoài làm ăn có tiền gởi
về. Nhiều chú rể Đài sau này không cần phải trả trước chi phí mà chỉ cần trả
góp sau khi cưới vợ về.
“Lúc biết em có bầu thì nó không còn bắt em làm chuyện đó
nữa. Nhưng em phải chứng kiến cảnh tụi nó với nhau mỗi đêm. Nhà nhỏ xíu chỉ có
một phòng ngủ anh à. Có lần em ra bếp nằm ngủ thì nó lôi em vào và sau đó mua ổ
khóa khóa cửa luôn. Lúc em sanh con xong thì chuyện cũ lại tiếp tục. Em chịu
không nổi nên đành bỏ con trốn đi”.
Còn em thì sao, em qua đây mấy năm rồi? Tôi quay sang hỏi
chuyện cô gái ngồi cạnh Lệ. “Nó mới qua có mấy tháng hà anh”. Lệ trả lời
giùm cho Thi. “Nó là em gái út của em, mới 17 tuổi hà. Nó chỉ tới thăm em bữa
nay. Chồng nó già khụ rồi anh. Không có tiền nên ký giấy trả góp cho tụi môi giới.
Bây giờ ông già bắt nó đi chạy bàn ở karaoke để trả nợ cho ổng. Ổng nói trả nợ
xong hết thì ổng mới cho gởi tiền về nhà”.
Tôi nhìn hai chị em vừa xót thương vừa không hiểu nổi. Hỏi Lệ
là biết qua đây khổ sở, bị đối xử như nô lệ mà lại còn kéo em gái mình qua. Lệ
trả lời bằng những câu chuyện về đời sống hoàn toàn không có gì ở quê mình. Những
người đàn ông đã rời khỏi mảnh đất không còn gì để mà sống. Những đứa con gái tới
tuổi mười bảy, mười tám là bỏ cái làng không còn gì mơ ước để mà đi. Lấy chồng
Đài đã trở thành con đường thoát. Chỉ còn đâu vài đứa trai làng buồn bã nhìn
người bạn gái từ thời thơ ấu leo lên chiếc xe hơi với gã đàn ông Trung Hoa già
nua, để lại đằng sau một đám bụi mù. Vài đứa may mắn, được nhà chồng cho ra
ngoài đi làm, dành dụm một khoản tiền riêng gởi về, cha mẹ thay nhà mái tranh
thành nhà ngói đỏ. Những bà mẹ nhà mái tranh khác, thúc giục đứa con gái vừa đủ
tuổi đi ra khách sạn đứng xếp hàng.
*
“Lúc tôi tới nơi thì đã có hơn 50 cô gái Việt Nam đang đứng
xếp hàng và hơn 10 người đàn ông Đài Loan tới từng cô ngắm nghía, sờ soạng”.
Anh bạn người Đài tên Ken ngồi trầm ngâm kể. Anh là người về Việt Nam dự trù cưới
vợ theo lời mời gọi quảng cáo của công ty môi giới. Là một tín đồ Công giáo,
anh đồng ý gặp tôi qua sự giới thiệu của một linh mục để thuật lại những gì anh
đã chứng kiến. “Những cô gái này đều rất trẻ và son phấn không che giấu được
nét nhà quê, chất phác và dáng vẻ ngượng ngập của họ. Nhưng có lẽ tôi mới là
người ngượng ngùng và xấu hổ nhất lúc đó. Nhìn những người Đài bản xứ của tôi
ngắm nghía, sờ mó các cô gái ấy và cười với nhau hô hố mà tôi hổ thẹn”. Ken
nói sau lần đó, anh về lại khách sạn và không đi nữa.
Nhưng những người Đài khác ở cùng chỗ trọ đã kể cho anh nghe
những chuyến “cô dâu ra mắt” ấy như thế nào. Có những nơi, đám môi giới bắt cả
100 cô gái Việt Nam xếp hàng, không một mảnh vải trên thân để những gã đàn ông
lựa chọn. Có nơi, nhiều cô gái xếp hàng đứng ngoài hành lang chờ đến phiên
mình. Có những cô gái được chọn là chú rể tiến hành ngay đám cưới. Có cô sau đó
phải đi với chú rể tương lai, gọi là để tìm hiểu nhau thêm, ở nhà hàng lẫn khách
sạn. Không hài lòng thì trở lại chọn cô khác. Có chú rể cố tình trải qua nhiều
vòng chọn lựa chỉ vì thích thú những màn miễn phí này.
“Những cô gái Đài ngày hôm nay trông được một chút thì
không bao giờ đoái hoài tới những người đàn ông trung bình như tôi”. Ken tiếp
tục kể. “Thấy những bảng trên xa lộ quảng cáo dịch vụ kết hôn, nhìn hình ảnh
những cô gái Việt Nam dễ thương, tôi muốn kiếm một người vợ trước khi quá muộn.
Tôi cũng đã quá 30 rồi. Nhưng tôi không ngờ con người lại bị đối xử như con vật
như thế. Tôi về lại Đài Loan không vợ mà còn mất hết tiền vì công ty môi giới
không chịu trả. Họ nói hoặc là tôi lấy đại một cô hoặc là không được gì hết.
Tôi không đi kiện tụng ai được vì tôi nộp tiền và ký giấy cho họ, tôi chẳng có
gì hết. Tôi cũng không dám nói với ai vì không dám đụng đến đám xã hội
đen”.
Có nhiều loại chú rể Đài lấy vợ Việt khác nhau. Ken là một
đóa sen trong ao bùn. Đa số những người đàn ông Đài qua Việt Nam lấy vợ là những
người không lấy được vợ Đài. Nói khác hơn là phụ nữ Đài họ chê. Đài Loan bên
trong là một xã hội kỳ thị giữa những tầng lớp khác nhau. Lái taxi ăn trầu thì
khó mà lấy được những cô gái trẻ sinh viên mới ra trường. Bên cạnh, người Đài
cũng kỳ thị với những cô dâu gốc Việt, gốc Phi ô sin, ngay cả người từ Lục địa
đến. Vì thế một người đàn ông Đài Loan thành công cũng không muốn lấy phụ nữ Việt
Nam dù đó là phụ nữ đẹp. Phụ nữ Đài Loan không đẹp như các tài tử đóng phim. Những
người đàn ông bị gái Đài chê mà lại thích vợ đẹp và qua Việt Nam lấy vợ, vì thế,
là những tài xế tắc xi miệng ăn trầu ngồm ngoàm, là những ông già lụm khụm, là
bảy tên chồng du đãng gom tiền lại cưới một cô dâu đem về chia nhau làm tình,
là đám xã hội đen buôn người cho ổ chứa. Và là những người tàn tật.
“Lúc về tới nhà em mới biết người em cưới không phải là
chồng em. Cái tên đàn ông trẻ trung làm đám cưới bên Việt Nam bây giờ nó gọi em
là má. Ba nó mới thiệt là chồng em”.
Sao vậy? Chứ hồi ở bển em không biết sao?
“Sao biết được! Tụi công ty môi giới nó đưa giấy tờ tên họ
chữ Hoa em có biết đứa nào là đứa nào. Và em ký thôi. Được người cưới là mừng hết
lớn rồi anh. Còn được đám cưới linh đình. Nó còn cho má em ba ngàn đô. Ai mà ngờ
được anh. Qua đây mới biết là tên trong giấy tờ là tên của ba nó. Ổng già hơn
60 và bị tàn tật, không cử động đi đứng gì được. Đi ăn, đi tắm, đi tiêu, đi tiểu
gì cũng phải có người chăm sóc. Trước đây, mỗi tháng nó trả 20000 Đài tệ để mướn
người tới nhà làm mấy chuyện đó. Bây giờ thì là em. Nó bỏ ra tổng cộng 7000 đô
Mỹ để lừa cưới em cho ba nó, tính ra chưa tới một năm là nó huề vốn. Còn lại là
em phải làm kiếp ô sin không lương cho ông chồng già tới khi ổng chết”.
*
Buổi chiều về tôi và Trang đi bộ dọc theo bờ con kinh nước
đen. Hai anh em không nói gì nhiều với nhau. Trang như đoán được tâm trạng của
tôi nên ráng an ủi:
“Anh đừng buồn, tụi nó có khổ lắm thì cũng 5 năm là có thể
vào quốc tịch. Lúc đó đứa nào cũng bỏ mấy thằng chồng cà chớn. Tuần tới em dắt
anh tới chỗ mấy đứa loại đó. Chuyện con Lệ kéo thêm con Thi anh cũng đừng trách
nó. Đứa nào qua đây khấm khá thì nổ như lựu đạn về bên nhà, đứa bị đánh đập,
giày vò thì giấu. Anh biết tại sao tụi nó phải giấu không? Có đứa sợ ba má nó
buồn. Có đứa sợ ba má nó chưởi là không biết chìu chồng, thua con Tư hàng xóm mỗi
tháng gởi tiền về mấy trăm. Có đứa thì sợ bị quê vì trước khi đi tuyên bố huênh
hoang. Nên ở nhà cứ tưởng tụi em qua đây yên bề yên bến và thúc hối những đứa
còn lại ra đi. Anh nói tụi em khổ còn hơn nô lệ. Em thì thấy ở nhà còn khổ hơn.
Nói chung tụi em biết sống chai lì và quen. Như cái mùi nước kinh này, riết rồi
em cũng quen không còn khó chịu như những ngày đầu mới tới”.
Tôi nghe Trang nói mà đầu óc cứ lan man với những mảnh đời
tôi mới gặp. Tôi nhớ lại hình ảnh của cô bé Vi mà Trang dẫn tôi vào thăm ở bệnh
viện lúc trưa. Vi vừa sống đời của một món đồ chơi tình dục trong vai trò cô
dâu, vừa sống đời của một ô sin ở đợ. Gia đình chồng của Vi tổng cộng 14 người,
sống nhung nhúc trong một căn nhà chật hẹp. Từ sáng tới chiều Vi hùng hục làm hết
mọi chuyện của một người đi ở. Đến chiều, khi cả nhà ăn uống xong thì Vi phải tới
xưởng làm đồ nhựa của chồng để làm ca đêm. Khuya về, Vi phải phục vụ người chồng
và nửa đêm đều đặn thức giấc để dìu ông già chồng đi vệ sinh. Mỗi ngày được nhắm
mắt bốn tiếng, Vi đã ngủ gật trên giàn máy cắt nhựa và bị cắt mất đi bàn tay phải.
Tôi về lại gác trọ và ra sau ban công ngồi. Vẫn chưa quen được mùi kinh hôi thối
cuốn theo con gió làm xào xạc tàu lá chuối rách cạnh nhà.
*
Chủ nhật sau gặp Trang tôi kể Trang nghe chuyện một cô gái ô
sin mà cha linh mục dẫn tôi đến gặp để giúp đỡ. Trước khi kể, tôi cũng nói trước
với Trang là chuyện anh kể lại có nhiều điều khó nghe nhưng Trang lớn rồi, chắc
không sao. Trang cười nói em đã nghe nhiều chuyện lắm, chuyện anh chưa chắc “mặn”
bằng chuyện em nghe đâu.
“Kim đi làm ô sin, bị người chủ hiếp. Kim trốn được chạy
tới chỗ cha nhờ giúp đỡ và cha khuyên là phải kiện người chủ ra tòa. Luật sư cần
nó viết bảng tường trình sự việc nhưng Kim không muốn cha làm chuyện đó. Kim
cũng đang khủng hoảng tinh thần mạnh lắm, may ra con giúp được nó”. Vị linh
mục dặn dò tôi vào buổi sáng trên đường đến gặp Kim.
*
Khác với những cô dâu mà tôi đã gặp, Kim đã hơn 30 tuổi. Ngồi
trò chuyện với Kim tới trưa, tôi chỉ hỏi toàn chuyện thời Kim đi học. Kim kể
tôi nghe những ngày đi buôn từ Tây Ninh, tới Mộc Bài sang tận Phnôm Pênh và đã
học tiếng Miên lẫn tiếng Hoa như thế nào. Kim tiều tụy, mắt sưng đỏ nhưng vẫn
còn đâu đó hình ảnh của một thiếu nữ xinh đẹp. Cho đến sau khi ăn trưa xong,
Kim mới cảm thấy gần gũi để kể chuyện của Kim cho tôi nghe và qua đó nhờ tôi viết
giùm bài tường trình cho luật sư đệ trình trước tòa.
“Chủ em là giám đốc một công ty nhỏ. Nhà chỉ có hai cha
con. Ông chủ và ba của ổng. Cả ngày em ở nhà dọn dẹp và hầu hạ ông già. Ổng tuổi
cũng cỡ ngoại em. Nhiều khi đi ra đi vào, ổng cứ tìm cách cọ quẹt người
em”.
Rồi em có về nói lại với ông chủ không? Tôi hỏi. Kim lắc đầu:
“Em chưa kịp nói thì tối ông chủ về đã xông vào giường
em. Phòng em trước đó là một cái gian chứa đồ nhỏ trên sân thượng. Không có chốt
cài cũng không có khóa. Em chống cự thì ông chủ không nói gì chỉ bỏ đi. Cứ thế
hết đêm này tới đêm khác. Em phải chờ tới hai, ba giờ sáng, lúc chắc chắn ông
chủ đã ngủ thì em mới yên tâm đi nằm. Tháng trước, không biết sao em buồn ngủ
quá, đồng thời em đang có tháng nên nghĩ chắc không sao. Cho nên lúc ông chủ
vào phòng đè chặt lên người em, em thức giấc, chống trả một hồi lâu thì đuối sức.
Em khóc lóc van xin, nói em đang có tháng ổng cũng không nghe”.
Kim vừa kể vừa khóc. Có lúc tôi thấy Kim rùng mình. Kim dừng
lại và nói thôi anh, em không kể được nữa. Tôi nói Kim nghỉ một chút để tôi
đánh máy lại những ghi chép ngắn thành bài viết. Một lát Kim trở lại ngồi đối
diện với tôi, cúi đầu ngập ngừng:
“Thật ra có một lần trước đó ổng sắp hiếp được em. Nhưng ổng
không làm được vì ổng... tới trước khi ổng cởi được quần lót của ổng.”
Tôi ngừng đánh máy, tránh nhìn Kim và hỏi Kim nhớ lại cho kỹ,
những điều này khó nói nhưng khi ra tòa luật sư của phía bên kia sẽ vặn hỏi
Kim. Làm sao Kim biết là ổng như vậy khi ổng còn mặt quần lót. Tôi viết lại một
cách gãy gọn như vậy nhưng lúc đó tôi đã lúng túng nói không thành câu. Cả hai
anh em đều ngượng ngùng. Kim khóc sướt mướt. Tới cuối ngày tôi mới viết xong bản
tường trình cho Kim. Lần gặp lại sau đó Kim tâm sự, “khi em kể lại cho anh,
em có cảm giác đau đớn và ghê tởm không khác gì lúc chuyện xảy ra”.
*
Chủ nhật một tuần trước khi rời Đài Loan, tôi cùng với Trang
lên Đài Bắc ghé thăm nhà thờ của cha linh mục và khu chợ nơi đông đúc các cô
dâu Việt Nam đang ở như Trang đã hứa. Đi xuyên qua đường chợ đông người, lạc
lõng đứng một mình bán rau là một cô gái Việt Nam làm dâu xứ người với nụ cười
và đôi mắt mà suốt đời tôi không bao giờ quên.
Quán Bình Minh là một tiệm nhỏ. Chủ Việt, khách cũng Việt.
Toàn là phụ nữ. Theo Trang, đa số các cô ở đây đã đến Đài nhiều năm. Có cô còn ở
với chồng. Nhiều cô đã bỏ chồng. Vừa ngồi xuống tôi đã chứng kiến thêm một cảnh
đời mới.
“Đ.m mày biết không, tối hôm qua tao gọi về bà già, đ.m.
nói chưa hết câu bả đã đòi gởi tiền…” Một cô dâu khác tiếp lời “thì đ.m. mày cả
mấy tháng rồi mày không gởi bả chửi là phải. Đ.m. mày đi đánh bài, cào một cái
trăm đô, đ.m...”
Linh mục nhìn tôi cười, quay sang hai cô gái nói, thôi nghe,
có cha đây làm ơn bớt nói mặn một chút. Trang cũng cười với tôi, “chưởi thề
là phong trào mới đó anh, đứa nào ở cái chợ này cũng chửi thề, càng chửi càng
thấy sướng”. Cô chủ cũng là đầu bếp cũng là tiếp viên đem nước tới tiếp lời
“đời này không chửi thì làm gì cha”. Cô nhìn linh mục cười.
Lân la ngồi quán hơn một giờ tôi lại nghe thêm về những mảnh
đời khác. Chuyện cô gái vừa tới phi trường là bị đám xã hội đen chở thẳng về
nhà gái, có cô sau đó bị đưa qua Quảng Châu. Chuyện cô gái sau vài tháng thì chồng
bán lại cho người khác, có cô bị bán hơn một lần. Chuyện cô gái bị em chồng,
cha chồng thay phiên nhau làm nhục mỗi tối. Mỗi câu chuyện được kể lại bằng những
tiếng chửi thề giòn tan đ.m đời tụi em nó chó đẻ vậy đó anh!
Trang, tôi, và vài cô dâu kéo nhau về nhà xứ của cha. Các
linh mục Việt Nam ở Đài có thú tiêu khiển nuôi chim. Vị linh mục tôi ghé thăm
cũng vậy. Ùa vào chỗ ở của cha, các cô dâu đã ào ào nắc nẻ: “cha cho tụi con
vào thăm chim cha; trời ơi chim cha bây giờ sao lớn dữ dzậy; hi hi, cha cho con
tắm chim cha nghe...” Linh mục nhìn tôi cười hiền: “Tụi nó vậy đó con,
miễn sao tụi nó còn cười là cha vui rồi. Có người trách cha sao quá dễ dãi với
tụi nó. Cha thì biết tụi nó không còn tha thiết gì với lễ nghĩa nữa. Đời đã làm
cho tụi nó chai lì. Thôi, miễn sao tụi nó cảm thấy gần gũi cha để có gì cha
giúp tụi nó là được rồi”.
*
Buổi chiều tôi ghé văn phòng Bộ Xã hội Đài Loan. Tiếp tôi là
một nhân viên phụ nữ người Đài dáng vẻ hách dịch hỏi tôi cần gì. Tôi kể về tình
cảnh của những phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài. Chưa đầy câu chuyện bà ta đã ngắt
lời: anh cần tôi giúp gì?
Cố gắng dằn cơn giận, tôi nói với bà ấy tôi nghĩ bà mới là
người cần giúp; theo thống kê của chính cơ quan bà đang làm việc, thì hiện nay ở
Đài có hơn một trăm ngàn cô dâu Việt Nam. Chồng của họ là những người già nua,
hoặc ít học, say sưa và đánh đập vợ con. Những người vợ Đài mới này không nói
tiếng Hoa, cô lập trong xã hội đang sống; mỗi cuộc hôn nhân dẫn đến trung bình
là hai đứa con; những đứa con trong một gia đình tan nát, bố mẹ như vậy thì
chúng sẽ là hai trăm ngàn công dân Đài Loan hư đốn trong tương lai mà xã hội của
bà phải giải quyết. Và con số sẽ không dừng lại ở một trăm, hai trăm ngàn. Mỗi
cô dâu đem lại lợi nhuận cho môi giới Đài lẫn Việt trung bình ba ngàn đô. Nhân
lên là ba trăm triệu đô. Một dịch vụ không cần nhiều nhân viên, phòng ốc, chỉ cần
những con người làm vật buôn bán, đem lại lợi nhuận khổng lồ như thế thì nó sẽ
tiếp diễn... Tôi nói nhiều, nói không kịp dừng để thở. Bà nhân viên xã hội nhìn
tôi. Tôi biết, qua ánh mắt nhìn, bà ta chưa bao giờ nghĩ tới những chuyện
đó.
*
Tôi rời Đài Loan mang theo mùi nước kinh nồng thối, mang
theo những buổi tối ngồi trên căn gác nhìn theo bóng đứa em hợp tác lao động vừa
mới kết nghĩa ngả dài trên lòng đường đi về lại công ty, mang theo những buổi
sáng ngồi chờ đứa em gái đi ngang vẫy tay cười.
Tôi rời Đài Loan mang theo hình ảnh những đứa bé Đài gốc Việt
nheo nhóc. Và những cánh lục bình nổi trôi trên dòng kinh đen. Chuyện cô dâu
cũng như những chuyện tang thương của đất nước, có lúc bùng lên rồi cũng lắng
xuống và mất hút trong những lo toan đời sống của từng người. Nhưng mỗi ngày
trôi qua, vẫn còn đó những đêm có cô gái nằm trên nhà kho sân thượng trằn trọc
ngó chừng ra cửa, những bàn tay ngủ gục bị cắt đứt, những cuốn phim nô lệ tình
dục tiếp tục quay, và những vết tím bầm trên mắt trên môi.
Tôi rời Đài Loan mang theo lời của Trang: Anh nói tụi em khổ
còn hơn nô lệ. Em thì thấy ở nhà còn khổ hơn. Lời nói ấy đã dẫn đến một bước
ngoặt của đời tôi.
Vũ Đông Hà