Trương Ba, tuổi còn trẻ, lại giỏi tài đánh cờ
tướng, tiếng tâm bay tới bên Tàu. Lúc bấy giờ, bên Tàu có ông Kỵ Như
cũng nổi tiếng là vua cờ, nghe danh Trương Ba, bèn qua Việt Nam, tìm
tới Trương Ba để thi tài cao thấp.
Trương Ba đưa đối thủ lâm vào thế bí, nên có vẻ tự
đắc: nước cờ này, Đế Thích cũng phải chịu thua !
Trên Thiên Đình, Đế Thích nghe được lời kiêu ngạo của Trương Ba, tức
giận, bèn hạ giới. Ông giúp Kỳ Như gỡ thế bí, chuyển bại thành
thắng.
Trương Ba biết người giúp Kỳ Như chắc phải là Đế
Thích nên sụp lạy tạ tội xúc phạm bực tiên thánh. Đế Thích bỏ qua
và còn cho một thẻ nhang với lời dạy: khi cần ta, hãy đốt lên một cây
nhang.
Thời gian sau, Trương Ba bổng ngã ra chết. Ma chay xong,
một hôm, chị vợ dọn dẹp nhà cửa, bắt gặp thẻ nhang, bèn lấy ra một
cây, đốt lên, đem cắm vào bàn thờ chồng.
Trên Thiên đình, bắt được mùi hương, Đế Thích liền
hạ giới. Biết Trương Ba đã chết cả tháng rồi, Ngài tạm dùng xác anh
hàng thịt vừa mới chết, gọi Nam Tàu, để sửa sai, hảy trả hồn Trương
Ba vào xác anh hàng thịt để cứu người bạn cờ.
Hồn vừa nhập vào xác, anh hàng thịt vụt ngồi dậy,
sống lại. Nhưng con người trong anh hàng thịt, giờ đây, là Trương Ba.
Sự xung đột mãnh liệt giữa hồn, tức con người nho nhả với cái thân
xác kịch cỡm, thô bỉ bắt đầu nhưng không có kết thúc nào khác hơn là
hồn dần dần bị biến chất theo áp lực thân xác.
Chuyện dân gian được nhà viết kịch Luu Quang Vũ dựng
thành kịch nói năm 1981 và năm 1984, đem trình diển nhiều nơi rất
thành công.
“Hồn Mao da Nghệ” là phỏng theo “Hồn Trương Ba da hàng
thịt” để nói vế một con người thật, tim óc là Mao Trạch-đông, tức
cộng sản đặc sệt tuy da, nhơn diện sắc tộc là người xứ Nghệ An .
Hồ Chí Minh là đệ tử chơn truyền của Lê nin?
Ngày nay, đang có hiện tượng bênh vực Hồ Chí Minh đi
theo cộng sản vì chỉ có Đệ Tam Quốc tế mới chống lại Đế quốc Thực
dân .Trước đây có nhiều tổ chức, nhiều phong trào, cũng bôn ba tìm
đường cúu nước, nhưng đều thất bại. Mà Hồ Chí Minh đi theo cộng sản
là theo Lénine, không theo Staline vì cho rằng Staline là cộng sản cực
tả . Cũng như Mao và mao-ít là cực tả (Trần Đĩnh gọi là mao-nhiều).
Cánh cực tả ác ôn trong cai trị. Nên ngày nay, Hà nội vẫn kiên quyết
đi theo mác-lê và thêm tư tưởng hồ chí minh cho hùng hậu. Là đúng và
sáng suốt.
Vậy Lê-nin có gì mà Hồ chí Minh học được?
Tháng Mười 2017, Lê nin cướp được chánh quyền bằng
một cuộc đảo chánh – đúng ra chỉ một cuộc binh biến nhỏ. Lập tức,
Lê nin dựng lên mô hình cai trị bằng bạo lực. Ông tuyên bố làm chiến
tranh thường trực.
Học Mác, ông lý thuyết hóa nội chiến làm thành
phương tiện cướp chánh quyền. Và giữ chánh quyền. Đó là bài học
cách mạng mà cộng sản khắp thế giới không ở đâu không học theo.
Lý thuyết khủng bố hàng loạt của Lê – nin có 2 ý
nghĩa: khủng bố do quần chúng làm theo sự xách động của cán bộ
cộng sản và khủng bố là tư tưởng trung tân của Lê nin. Khái niệm này
được Lê nin đưa ra rất sớm. Vì theo Lê nin, khủng bố là động cơ lịch
sử, hoàn toàn do đấu tranh giai cấp thực hiện. Nó làm nổi bật tương
quan lực lượng. Nó là sự thật chánh trị. Vai trò của bạo lực là
thanh toán xã hội cũ.
Trong chánh trị, Lê-nin đã từng dạy “Thi hành bạo
lực triệt để thì chế độ ta không bao giờ bị cướp mất” .
Cái ác ôn của Staline là do học được ở Lê-nin. Có
người hỏi Ngoại Trưởng Molotov: Lê-nin và Staline, ai ác hơn ai? Ông trả
lời không ngần ngại: Lê-nin là bậc đại gian đại ác, là đại sư phụ
của Staline .
Theo Victor Sebestyen, sử gia Anh, trong quyển (“Lenin – The Dictator; An
Intimate Portrait” của ông, xuất bản ở Anh), để đạt mục đích, Lê-nin “nói dối
trắng trợn” và sẵn sàng bỏ qua lời hứa, cũng vì “mục tiêu Cách mạng”.
Victor Sebestyen cho rằng sự tàn bạo của chế độ Liên Xô bắt
đầu từ chính Lê-nin chứ không phải từ Staline.
Điểm mấu chốt là từ chỗ lãnh đạo nhóm Bolshevik giành được
chánh quyền năm 1917, Lê-nin đã giữ được chánh quyền qua cuộc Nội chiến Nga
và tạo ra nhà nước cộng sản đầu tiên bằng bạo lực. Staline chỉ là người kế tục
chánh sách bạo lực do Lê-nin dựng lên lúc ông cầm quyền .
Dù lấy cảm hứng từ lý tưởng cộng sản của Karl Marx và tư tưởng
xã hội của Friederic Engels, chủ nghĩa do Lê-nin tạo ra cả về lý luận và trên
thực tiễn được cho là “nhà nước toàn trị hiện đại đầu tiên” (sau quân chủ
với bạo chúa). Những người Bolshevik (cộng sản) đã đem chủ nghĩa xã hội
vào thực tế và áp dụng các biện pháp chuyên chế, độc đoán nhằm bẻ gãy sự phản
kháng của người dân. Vì thế, mọi mặt của cuộc sống kinh tế, xã hội, văn hóa,
trí tuệ và sinh hoạt chính trị tại Liên Xô đều bị Đảng Cộng sản kiểm soát
triệt để và mang tính trại lính, không chấp nhận bất cứ phê phán hay dấu
hiệu đối lập nào .
Xã hội xã hội chủ nghĩa được xây dựng bằng quyền lực độc
đoán của quan chức Đảng Cộng sản và bộ máy quan liêu. Khủng bố được áp dụng
không khoan nhượng và các suy nghĩ nhân đạo hoặc tư tưởng cá nhân đều bị gạt
đi.
Lớp trí thức cũ và cả sinh hoạt đạo đức bị cải tạo. Sự
thật, Luân lý, Công lý. Sự tử tế, …dần dần không còn là những gíá
trị được xã hội qui chiếu nữa.
Tình trạng xã hội ở Việt nam ngày nay phản ánh rất
trung thực xã hội nga dưới thời Lê–nin cai trị .
Hồ Chí Minh làm cách mạng dân tộc hay cách mạng
cộng sản?
Tại Đại hội II ,Hồ Chí Minh đọc báo cáo do Trường Chinh soạn
“Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa
xã hội”. Và cũng từ đây, đảng cộng sản chánh thức đổi ra thành “Đảng Lao Động”.
Đảng vẫn khẳng định “đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn và
chuẩn bị những tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi kháng chiến thành công”.
Ngoài ra, đảng còn xây dựng ở mỗi nước Đông Dương một đảng cộng sản riêng. Và
sau này, Trung Ương Cục Miền Nam đặc trách luôn cộng sản ở Miên.
Hồ Chí Minh xác định làm cách mạng ở Việt Nam là đánh
đuổi xâm lược, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống nhứt, xóa bỏ những di
tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ
dân chủ nhơn dân, gây cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Con đường
tiến đến chủ nghĩa xã hội trải qua một thời gian dài gồm 3 giai đoạn, kế tục
nhau và quan hệ mật thiết: kháng chiến tiêu diệt đế quốc xâm lược, giải phóng
dân tộc, củng cố Nhà nước Dân chủ nhơn dân, cải cách ruộng đất triệt để, phát
triển nông nghiệp, công nghiệp dưới hình thức hợp tác hóa, kỹ nghệ hóa, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất -kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh đảng Lao Động xác định mục đích, tôn chỉ, nhiệm vụ
lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhơn dân đến thắng lợi và nhiệm vụ xây dựng đảng
là đảng của giai cấp công nhơn và nhơn dân Lao Động, dựa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác-Lê nin theo nguyên tắc tập trung dân chủ, sau cùng là chế độ xã hội
chủ nghĩa và chế độ cộng sản.
Trường Chinh từng chỉ dạy đảng viên “Chiến tranh giải phóng
Việt Nam là một bộ phận của chiến lược giải phóng toàn thế giới theo cộng sản”.
Như vậy, Hồ Chí Minh tuyên bố cách mạng giành độc
lập là chỉ để vận động quần chúng đánh giặc giúp cách mạng thành
công cho mục tiêu cộng sản .
Còn tư tưởng Hồ Chí Minh?
Hà Nội từ năm 1991, Đại hội VII (6/1991), đưa ra cái gọi là
“tư tưởng Hồ Chí Minh” là một cách bắt chước rập khuôn theo Tàu. Ở đây, họ đề
cao tư tưởng Mao Trạch Đông. Thực chất là theo Tàu, nhưng khi nói tư tưởng Hồ
chí Minh, ý của Hà Nội muốn trát lên một chút son phấn “bản sắc dân tộc” sau
khi khối cộng sản Liên Xô và đông Âu sụp đổ.
Khi nói “tư tưởng Hồ Chí Minh”, đảng cộng sản gán cho ông
cái “tư tưởng” giả tạo vì chính ông đã từng nói “Tôi không có tư tưởng gì ngoài
tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê cả”. Vì đã lỡ nghe nói tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta
thử tìm hiểu coi đó là gì?
Về mặt chánh trị, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự đề cao Mao và
Staline của ông ở Đại hội II, lúc thành lập đảng Lao Động. Quan điểm của
Staline mà Hồ chí Minh vô cùng tâm đắc là “Đảng cộng sản là công cụ của chuyên
chính vô sản” và “chuyên chính vô sản, về thực chất, được thay thế bởi chuỳên
chính của đảng cộng sản”. Hơn nữa, trong thực tế, chuyên chính của đảng cộng sản
là chuyên chính của một người, tức của Tổng Bí thư đảng. Boris Souvarine từng
khen ngợi Hồ Chí Minh là đệ tử tuyệt trần của Staline.
Còn Mao ảnh hưởng Hồ Chí Minh, thì tưởng không có gì rõ hơn
là ý mà Hồ Chí Minh phát biểu tại Đại hội II “Cách mạng Việt Nam phải học nhiều
của cách mạng Trung Quốc, Kinh nghiệm và tư tưởng Mao Trạch- đông đã giúp chúng
tôi hiểu thấu hơn học thuyết mác-anghen-lênin-stalin. Những người cách mạng Việt
Nam phải luôn luôn ghi nhớ và biết ơn Mao Trạch Đông về sự cống hiến to lớn
đó”.
Và cũng tại Đại hội II này, Hồ Chí Minh tuyên bố “Ai đó
thì có thể sai, chớ đồng chí Staline và đồng chí Mao trạch-đông thì không thể
nào sai đưọc”. Có thể còn sự sùng bái nào hơn dược chăng? Và ngày nay,
Tàu lấy trọn nước Việt nam thì cũng đúng thôi!
Nói rõ hơn, theo Phạm Văn Đồng, tư tưởng Hồ Chí Minh gồm có
5 yếu tố chủ yếu: chủ nghĩa Mác-Lê, sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản,
chuyên chính vô sản, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và tinh thần quốc tế vô
sản.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định “chủ nghĩa Mác-Lê là học
thuyết đúng đắn nhứt, cách mạng nhứt, là kim chỉ nam cho hành động” của người
cách mạng.
Người cộng sản vẫn khẳng định rằng “tư tưởng Hồ Chí Minh là
một sự vận dụng nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác-Lê vào điều kiện cụ thể của nước
ta”, nhưng trong thực tế, từ xưa nay, họ chỉ biết áp dụng rập khuôn, một cách
máy móc kinh nghiệm của Liên-Xô và Trung Quốc mà không quan tâm tới hoàn cảnh cụ
thể của Việt Nam nên gây ra hậu quả vô cùng thảm hại như cải cách ruộng đất, cải
tạo công thương nghiệp, cải tạo tư sản, chánh sách kinh tế mới,…
Ngoài ra, khi ở Nga, Staline thanh trừng Trostky, ở Việt
Nam, Hồ Chí Minh cũng nhiệt tình hưởng ứng, đi lùng tiêu diệt nhóm Tạ Thu Thâu,
Phan Văn Hùm, Hồ Văn Ngà, Trần Văn Thạch,… mà Hồ Chí Minh gọi “đàn chó trốt-kít,
bọn phản động, gián điệp, tay sai đế quốc, những kẻ đầu trâu mặt ngựa, những kẻ
thù của nền dân chủ và tiến bộ,… ”
Về mặt kinh tế, Hồ Chí Minh cũng chủ trương tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội, tức xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa, làm
cho nền kinh tề gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhứt,
dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Và Hồ Chí Minh còn nói thêm
“Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu của toàn dân, nó lãnh đạo nền kinh tế
quốc dân, Nhà nước phải bảo đảm cho nó phát triển ưu tiên, tạo nền tảng vững chắc
cho chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy cải tạo xã hội chủ nghĩa”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn là chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng
Mao Trạch Đông mà ông học được. Ở Hồ Chí Minh không có bản sắc dân tộc. Trên
báo Thanh Niên phát hành tại Quảng Châu, số 22/12/1926, Hồ Chí Minh nói rõ quan
điểm của ông về Dân tộc, Tổ quốc “Cái danh từ Tổ quốc là do các chánh trị
gia đặt ra để đè đầu nhơn dân, để buộc những người vô sản phải cầm vũ khí bảo vệ
tài sản của địa chủ và quyền lợi của giai cấp tư sản. Thực ra, chẳng có Tổ quốc,
cũng chẳng có biên giới… ”.
Hồ Chí Minh từ lúc chọn theo Quốc Tế Đệ Tam cho tới
ngày chết, trước sau, tự tu luyện để trở thành người cộng sản tinh
ròng. Những biểu hiện độc lập dân tộc chỉ là thứ «vạn biến» để
phục vụ cho cái bất biến là cộng sản. Trong di chúc, Hồ chúc cho vô
sản thế giới thắng lợi để thế giới trở thành cộng sản. Và khi
chết, Hồ sẽ hạnh phúc đi gặp cụ Mác, cụ Lê chớ không phải đi gặp
Cụ Sắc, Bà Loan hay Anh Đạt, Chị Thanh.
Câu truyện dân gian « Hồn Trương Ba da hàng
thịt » thể hiện rất chính xác vào Hồ, đội lốt người Nghệ An,
tức người Việt nam, nhưng tim óc hoàn toàn là Mao, là Staline .