Năm ấy tôi hai mươi lăm tuổi, lần đầu tham dự một trại viết
dành cho những cây bút trẻ. Đến trại, tôi mang theo trong ba lô mười lăm bài
thơ, một cái truyện ngắn dở dang, và rất nhiều mong đợi về sự nghiệp văn chương
sau này. Chỉ có một điều tôi không mong, mà đã tới…
Nhật vào làng viết lách trước tôi. Đọc thơ tôi, Nhật không
khen, không chê, chỉ nói lừng khừng: “Thơ con gái, đọc nghe cũng dễ thương”.
Cách khen ấy làm tôi tự ái. Nhật lại đọc truyện ngắn của tôi, rồi phán: “Cũng
được. Nhân vật nam của em sao mà đa cảm vậy? Ngoài đời không có đâu. Chưa biết
gì về đàn ông”. Tôi sừng sừng nét mặt: “Xin lỗi nghe, không dám nói là không biết
đâu”. Nhật cười ngạo nghễ: “Nhìn mặt biết ngay chưa có mảnh tình nào vắt vai”.
Tôi hỉnh mũi: “Lẽ nào phải nhảy vào chảo dầu mới mô tả được cảm giác của con cá
rán?”.
Trại viết đóng trong một khu biệt thự lớn ven biển, nằm
trong khuôn viên hơn ba nghìn mét vuông. Ban tổ chức trại ở tòa nhà hai tầng
chính giữa, tầng dưới có hội trường và một phòng ăn dài. Mỗi bàn ăn có bốn ghế.
Ban tổ chức trại có ba người, trong khi có đến năm nữ. Thành thử, đến bữa ăn thế
nào cũng có một cô bị xếp sang bàn của “lãnh đạo”. Ngồi ở mâm này khó đùa giỡn,
lại phải vừa ăn vừa trả lời các câu hỏi về ý định sáng tác, quan niệm về chủ nghĩa
hiện thực v.v… và v.v… nên kết quả là thường bị đói, nếu no thì cũng rất khó
tiêu. Cho nên cứ đến gần giờ ăn là cả mấy chị em không ai bảo ai đều quẳng bút,
lo thay sẵn quần áo, hễ nghe kẻng đánh một tiếng là ù té chạy, ai chậm chân
thì… ráng ngồi mâm chung với các VIP.
Một lần mải viết nên tôi chậm chân, lúc cắm đầu chạy thục mạng
tôi đâm sầm vào chú. Thật nhục. Mình đang tuổi thanh niên mà ngã quay lơ xuống
sàn, còn “ông già” thì xuống tấn đứng tỉnh queo. Chú lôi tôi dậy, ấn xuống ghế
trước mặt. “Có việc gì mà các cô chạy đua ghê quá vậy?” Tôi lúng túng. Trả lời
sao đây? Các bàn bên cạnh bắt đầu ran lên tiếng cười rúc rích, tôi nhìn thấy cặp
mắt ngạo mạn của Nhật như muốn chọc quê tôi. Tức ơi là tức. Trước mặt tôi, ba vị
chức sắc bắt đầu gắp một cách rất nghiêm trang. Cả ba vị đều là người của Trung
ương Hội cử vào. Trung ương Hội là những đâu, đối với tôi lúc ấy nghe có vẻ cao
xa vòi vọi, nên trong mắt của cây bút trẻ như tôi thời đó, tôi vẫn nhìn các vị
với cái nhìn e dè kính nể như học sinh cấp ba đối với ông thầy. Chú là trại trưởng.
“Sao, cô bé, truyện ngắn viết đến đâu rồi?” Chú hỏi, giọng nghiêm nghị. Thường
thì dù đang ăn tôi cũng lễ phép trả lời, nhưng hôm ấy trong tâm trạng bực bội
tôi cứ ỳ ra, mặt mày quạu cọ. Thật ngạc nhiên, chú không trách, cũng không hỏi
nữa, mà lặng lẽ gắp thức ăn bỏ vào bát tôi.
Sau này trong những lần chú góp ý bản thảo, tôi nghe chú kể
đời mình. Tập kết năm năm tư, chú để lại miền Nam một vợ hai con. Hai mươi năm
trời ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân. Ngày hòa bình, quay về thì vợ đã lấy chồng,
người chồng vừa đi cải tạo. Hai con đều đã di tản sang Mỹ. Chú đến trại cải tạo
xin bảo lãnh cho ông chồng của vợ cũ, rồi mang ba lô quay về Bắc. Lại ăn cơm tập
thể, nằm giường cá nhân, bắt tay vào viết tiểu thuyết bộ ba, lấy đó làm lẽ sống.
Thời ấy, tiểu thuyết dài ba tập kiểu Liên Xô đang là thời
thượng, nhà văn nào có một bộ ba như thế là được xem ngay là nhà văn lớn. Chú
có đến hai bộ. Một bộ nói về chiến tranh, một bộ nói về cải tạo công thương
nghiệp thời hậu chiến. Bộ tiểu thuyết về cải tạo công thương nghiệp, chú mới
cho ra đời được có hai tập, tập thứ ba hơn ba năm nay vẫn chưa viết xong. Đó là
khoảng thời gian chú vào ban chấp hành hội, họp hành liên tục và đảm đương nhiều
việc, ví dụ phải đi tổ chức trại viết cho các cây bút trẻ như tôi chẳng hạn.
Trong căn phòng nhỏ có cửa sổ mở ra phía núi, tôi cặm cụi viết
tác phẩm đầu tiên ở trại. Đó là một câu chuyện đã chứng kiến tại trường học mà
tôi vừa đến dạy. Hôm ấy vào dịp cuối năm, công đoàn cơ quan có mua được khoảng
một chục chiếc chén sứ Hải Dương. Có chục chiếc chén mà đến bốn mươi cán bộ,
nên phải bình bầu xem ai xứng đáng hơn, bắt đầu từ hoàn cảnh rồi đến năng lực đến
phẩm chất… Kết quả là có hai cô giáo giận nhau đến nỗi không nhìn nhau được và
cuối cùng có một người phải xin chuyển đi…
Câu chuyện tôi viết chắc có bút pháp rất non nớt. Vì vậy sau
khi kiếm vài ưu điểm râu ria để khen cho tôi đỡ mất tinh thần, chú chê ngay. Em
còn trẻ, sao nhìn đời đen tối vậy? Phải tin ở cuộc đời. Tôi ngạc nhiên: “Thưa
chú, cháu hầu như viết y chang sự thật mà”. “Thế mới sai lầm. Y chang sự thực,
đấy là tự nhiên chủ nghĩa. Cháu phải nhìn sự thực trong xu thế phát triển của
nó”. “Nghĩa là vừa có chuyện hai cô giáo giận nhau, vừa có chuyện hai cô giáo
làm lành phải không chú?” Chú nhìn tôi, vẻ mặt như đang nuốt thứ gì đắng, chắc
chú nghĩ sao lại có một “cây bút” ngớ ngẩn như thế này.
Tôi về thức cả đêm để “rờ tút” lại tác phẩm, nhưng rồi chỉ
hôm sau những tờ giấy đáng thương bị thả tung trước gió để lả tả bay đi. Chiều
lại, đến giờ cơm, tôi lại bị ngồi vào mâm chức sắc. Chú hỏi tôi truyện viết đến
đâu rồi? Tôi định không nói, nhưng cuối cùng đành để lộ lý do: Nhật đã đọc câu
chuyện tôi kể với cái đoạn kết về hai cô giáo làm lành, anh ta lăn ra cười và
chế nhạo tôi: Đột ngột thế. Chủ nghĩa hiện thực của Lý là chủ nghĩa “đùng một
cái”.
Tôi tự ái tràn hông, vò nát bản thảo cho nó bay tung tả. Sau
này nghĩ lại, tôi tiếc đã không giữ lại những dòng chữ vụng về của mình. Nhật
chế giễu tôi: “Lúc nào cũng xù lông như con nhím”. Chú thì có vẻ bực, có ý xem
Nhật là tay phá bĩnh… Tôi thì rối ren giữa hai người, bắt đầu cảm thấy việc
sáng tác sao mà khó khăn, không dễ dàng như lâu nay tôi tưởng. Chao ôi có mấy
trang truyện ngắn mà đã nhiêu khê như thế, vậy chú đã phải vượt qua bao nhiêu
trăn trở mới viết ra được những bộ ba dày tập đồ sộ như vậy? Nói với Nhật, Nhật
chỉ cười…
Gần nửa tháng sau đó tôi giận Nhật, những bữa nhanh chân
không phải ngồi bên mâm VIP, tôi cũng tránh ngồi chung mâm với anh. Giận dai vậy
là vì chị Tố Hoa ở phòng bên cạnh có hôm bảo tôi, thằng Nhật láo, hôm nay tao
đi qua chỗ mấy ông ngồi uống cà phê, thấy họ đang bàn tán về chị em mình. Thằng
Nhật nói: “Loài người cũng có điểm giống với các sinh vật sống thành bầy, những
con cái luôn hướng về con đầu đàn, còn con đầu đàn thì luôn chọn những con cái
trẻ nhất”. Tao chắc là nó nói mày. Tôi điếng người. Ừ, tôi hay ngồi mâm VIP nhất,
lại còn tỏ ra khâm phục chú nữa…
Chiều chiều, chúng tôi thường xuống biển tắm. Tòa nhà của trại
viết nằm ở bãi sau, rất yên tĩnh, vắng lặng. Tôi tránh Nhật, ngồi ở một chỗ xa
xa. Chợt có bóng người ngồi xuống bên tôi. Tôi ngạc nhiên: chú.
Chú nói rất nhiều, như thói quen. Nhà văn hay nói, lãnh đạo
cũng hay nói, mà chú là cả hai. Bỗng nhiên, chú nắm lấy bàn tay tôi đang chống
trên cát. “Lý có bàn tay đẹp quá”. Chú bảo, giọng khàn lại. Tôi ngạc nhiên quá.
Đang nói chuyện văn chương, chuyện thời cuộc, sao chú chuyển đề tài đột ngột thế
này. Ngỡ ngàng quá nên tôi bật lên cười: Ha ha ha…
Chú ngượng, rụt ngay tay lại. Lại tiếp tục chuyện văn
chương, thời cuộc.
Tôi chẳng hiểu gì cả. Lúc ấy tôi chỉ mong chú đi qua nơi
khác cho nhanh, kẻo lọt vào mắt Nhật, chắc chắn tôi lại trở thành đề tài mổ xẻ
cho quý nhà văn trong trại.
*
Một buổi sáng, khi thức dậy như lệ thường tôi chạy xuống biển.
Không phải bãi biển vắng hoang sơ như mọi ngày. Trên bãi lố nhố người. Tôi hét
lên kinh sợ: nhiều xác người nằm im lìm trên cát. Lúc đó tôi hai mươi lăm tuổi,
lần đầu tiên nhìn thấy người chết, mà nhiều người chết như thế. Bưng mặt, tôi
hoảng loạn chạy ngược lại, không dám nhìn. Tôi chạy tấp vào mái hiên gần nhất.
Một cánh tay quàng lấy tôi: “Đừng sợ”. Cánh tay giữ chặt cho tôi đứng vững. Tôi
vẫn nhắm mắt, run rẩy. Lát sau, mở mắt, tôi thấy Nhật. Mắt anh đỏ, gương mặt
không còn chút gì vẻ tếu táo thường ngày.
Đêm qua biển động, một thuyền chài chìm ngoài khơi, thuyền
quá cũ không chịu được sóng biển.
Nhật kéo tôi xuống bãi. “Đi, chạy vào xóm chài, chắc chắn
mình phải giúp họ được việc gì đó”. Tôi khuỵu chân, vừa khóc vừa bưng mắt:
“Không, không, Lý sợ lắm!” Nhưng Nhật dựng thẳng tôi lên, quay mặt tôi ra phía
có những xác người: “Nhìn đi! Đã làm nhà văn thì đừng sợ gió!”
Tôi mở mắt. Sau này, cả đời tôi, thỉnh thoảng tôi lại nghe lời
nói của Nhật. “Đừng sợ gió!”
Sau những đám tang, tôi và Nhật thường xuống xóm chài. Có lần
theo bọn trẻ con đi thuyền câu mực cả đêm. Những con mực thật đáng thương,
chúng thường chết đói. Chúng là những sinh vật yêu thích đồ chơi, bọn trẻ câu
chúng không cần phải mua mồi, chỉ nhặt những mẩu giấy bạc trong các vỏ thuốc vứt
đi, cắt nhỏ rồi gắn vào lưỡi câu. Những con mực thấy lấp lánh xán đến chơi, rồi
mắc câu. Nhật thường hăng hái câu giúp bọn trẻ, nhưng tôi thì thấy thương lũ mực.
Thế là cãi nhau.
Trên đường về, Nhật bảo: “Em đúng là Nhím con. Ai có thể yêu
em mà không bị thương?”
Tôi khuỳnh khuỳnh: “Dù là ai thì cũng không đến phần anh
mà”.
Tôi nhớ hôm đó khi về trại, thật bất ngờ, chú đứng ngay trước
cổng, thấy chúng tôi chú run lên giận dữ. “Các đồng chí đã vắng mặt hai ngày
không có lý do. Vậy là vi phạm nội quy của trại…”. Giọng chú hôm nay nghe như gầm
thét, tôi thực sự ngỡ ngàng. Chị Tố Hoa bảo: “Chú Thông đứng ngóng ngoài cổng từ
sáng đến giờ, cứ lo là hai đứa bây bị kẻ xấu bắt cóc rồi. Mà đi đâu dữ vậy?”
Tôi thật thà: “Đi câu mực”. “Cha, sướng chưa, mà câu mực thiệt không?”.
Thế là họp, kiểm điểm, phê bình. Sau cuộc phê, Nhật cuốn hết
áo quần bản thảo, bỏ về thành phố.
Đường từ bãi sau lên bến xe cũng không gần. Tôi mượn xe đạp
đuổi theo. Nhật quay lại, vứt cái túi xách xuống đất. Tôi vứt chiếc xe bên đường.
Những vách núi làm nhân chứng cho cái ôm hôn đầu tiên trong đời tôi. Có hương vị
của nắng, của gió biển, của tiếng phi lao rì rào ngoài kia. Da thịt của trai và
gái khi áp vào nhau sao mà êm ái, có muôn ngàn nốt nhạc đang từ Nhật bay sang
tôi, có muôn ngàn nốt nhạc bay từ tôi sang Nhật. Khi lấy lại được hơi thở, tôi
ngượng ngùng, hí hửng: “Vậy là từ nay có thể mô tả cảnh hôn nhau được rồi”. Nhật
bật cười, âu yếm gãi gãi vào mũi tôi: “Muốn trải nghiệm cảm giác của cá rán thì
cứ nhảy vào chảo dầu đi, hóa thành cá lóc chiên xù đừng trách à nghen!”.
Anh xoay người cho tôi nhìn ra biển. Biển rộng quá. Anh
không thể biết tôi đã nghĩ gì khi cùng anh ngồi thuyền trên mặt biển. Biển mênh
mông và không hề gò bó, biển chứa đựng nguồn sống và ẩn tàng cả cái chết, biển
gợi nên bao ý tưởng về cuộc đời này, những điều ấy tôi đã cảm nhận khi ở bên
anh. Tôi không cần giải thích với chú hay bất cứ ai điều đó. Cả với anh cũng vậy,
như anh nói, cuộc đời này là để sống chứ không phải để lay hoay giải thích.
Quay lại, tôi choàng ôm lấy anh lần nữa. Anh dịu dàng: “Nhím con, ai có thể yêu
em mà không bị thương? Tất nhiên là anh rồi!”.
Hai mươi năm sau tôi mới lấy chồng. Cứ nghĩ sẽ sống một mình
với trang viết trọn đời, nhưng năm bốn mươi lăm tuổi tôi gặp nhân duyên trong một
lần đi dự hội thảo ở nước ngoài. Không còn nhiều thời gian nên mọi chuyện xảy
ra chóng vánh. Trước ngày cưới, tôi vào Sài Gòn làm thủ tục. Có người rủ đi
Vũng Tàu chơi. Tôi từ chối. Tối hôm ấy bỗng nhiên trong tôi tái hiện biết bao
nhiêu hình ảnh đã quên. Tôi chợt muốn gặp lại anh, gặp lại chú, những người đầu
tiên mà tôi gặp trên đường cầm bút.
Chú bây giờ ở Sài Gòn, trong một ngôi nhà tại quận Bình Thạnh,
cùng với gia đình đứa con gái từ Mỹ nay đã về định cư ở Việt Nam. Tôi ngồi chờ ở
phòng khách. Cô con gái dẫn bố ra, chú nhìn tôi, mắt mở to nhìn rất lâu: “Cô là
ai?”.
Tôi lặng người, thầm nghĩ: “Không lẽ mình đã đổi thay nhiều
đến thế?”.
Nhưng cô con gái đã giải thích: “Ba em bị chứng Alzheimer ba
năm nay rồi, không nhớ gì cả!”.
Trên đường về, tôi vào một quán cà phê, ngồi một góc nghe tiếng
dương cầm. Cuộc gặp chú làm tôi thầm cân nhắc, có nên gặp Nhật không?
Nhiều năm qua, Nhật đã thành một nhà văn rất nổi tiếng.
Chúng tôi thỉnh thoảng đọc nhau qua sách báo, thỉnh thoảng cũng trao đổi thư từ.
Tình yêu đã sôi nổi một thời rồi lắng xuống, nhưng suốt hai mươi năm, tôi không
thể phủ nhận rằng rất nhiều khi tôi viết chỉ vì muốn Nhật nhìn thấy tên mình
trên mặt báo.
Nhạc rất mềm thấm vào tim tôi. Serenade rồi Plaisir d’Amour
rồi Kỷ niệm… Tôi nghĩ: Không phải tìm gặp Nhật nữa. Phần cuộc sống ngoài đời,
chúng tôi không thuộc về nhau. Nhưng anh luôn ở đây với tôi, trong tâm thức về
biển cả.
Ngay cả khi tôi tưởng đã quên rồi.
Trần Thùy Mai