Hà Nội có tháp nước tròn to cao lừng lững hơn trăm năm tuổi,
tọa lạc ở ngã năm các con phố Hàng Đậu – Hàng Than – Hàng Giấy – Quán Thánh –
Phan Đình Phùng. Từ lâu nó không còn hoạt động, trở thành hiện vật bảo tàng
ngoài trời về kiến trúc đô thị của Pháp ở xứ thuộc địa Đông Dương cuối thế kỷ
19. Trong ký ức của tôi, vào khoảng những năm 70-80 thế kỷ trước, đó còn là nơi
tụ tập vào buổi sáng mỗi ngày của một đám bụi đời do Tâm sứt làm đại ca chỉ
huy. Địa điểm tập trung là chân tháp nước tròn, trên vỉa hè nhìn ra vườn hoa Vạn
Xuân còn gọi nôm na là vườn hoa Hàng Đậu. Hành nghề của đám bụi đời này chia
hai nhóm: gánh nước thuê và móc túi trên tàu điện. Mỗi nhóm chừng năm đứa choai
choai cỡ 14-15 tuổi, ban ngày hành nghề, tối ngủ ở chợ Hòe Nhai gần đó.
Tâm sứt
hồi ấy khoảng 18 tuổi, là con trai độc nhất của bà bán rau và dưa gang muối
trong chợ. Hai mẹ con sống ở căn hộ nhỏ tại số nhà 20 phố Hòe Nhai. Ai đã từng
sống ở Hà Nội thời bao cấp đều biết câu thành ngữ: “Thứ nhất Hòe Nhai, thứ hai
ngõ Trại”. Nó ám chỉ hai nơi ngõ Trại Găng trên phố Bạch Mai và khu tập thể ở số
nhà 20 Hòe Nhai là địa danh khét tiếng, tập trung nhiều đàn anh đàn chị trong
giới giang hồ của thành phố. Trong đám giang hồ ấy, Tâm sứt thuộc hàng tép riu,
không có số má, chỉ đáng làm đại ca mấy đứa choai choai bụi đời, nhưng nó là đứa
khôn ranh nên cũng kiếm được kha khá và biết dành dụm, không tiêu xài hoang phí
hay chơi lô đề, ba cây, chắn cạ…
Tôi biết Tâm sứt bởi mê món dưa gang muối của mẹ nó, món
khoái khẩu, trôi cơm lại rất đa năng với loại trí thức nghèo. Lúc đói bụng, chỉ
cần bát cơm nguội chan nước rau muống luộc với mấy lát dưa gang muối cũng xong
bữa. Khi hứng lên tụ tập bạn bè, tôi mua của bà vài quả dưa gang muối rửa sạch,
thái mỏng rồi trộn ít đường và dấm ớt là có thể ngồi nhậu lai rai cả buổi, chém
gió tưng bừng. Lâu dần tôi thành khách hàng quen mặt, được bà quý mến, tin cậy
nhờ vả can thiệp những lúc Tâm sứt bị gọi lên đồn công an vì tội đánh lộn ở máy
nước công cộng dưới chân tháp nước tròn. Thật ra công việc cai quản hai nhóm trẻ
bụi đời của nó, chỉ phức tạp ở nhóm móc túi trên tầu điện, còn nhóm gánh nước
thuê ở vòi nước công cộng xét cho cùng vẫn là nghề nghiệp chính đáng. Nếu tính
về mặt thu nhập thì với nó, chăm sóc nhóm móc túi vừa nhàn lại kiếm được nhiều
hơn vì tháp nước tròn là điểm giao nhau giữa hai tuyến xe điện Yên Phụ – Ngã Tư
Vọng với tuyến Bưởi – Đồng Xuân đều là những tuyến đông khách, dễ dàng móc túi.
Tuy nhiên tôi lựa lời khuyên bảo, phân tích cho nó rõ, đó là nghề thất đức.
Hơn nữa, người bị móc túi trên tàu điện đa phần là các bà buôn thúng bán mẹt có
khi còn nghèo khổ hơn mẹ nó ngồi bán hàng trong chợ Hòe Nhai. Họ mất tiền một
buổi chợ thì con cái nheo nhóc, cầm đồng tiền ấy lương tâm cắn rứt không yên. Một
lần đến nhà chơi, có mặt cả mẹ nó, tôi khuyên nên giải tán nhóm móc túi, đứa
nào chịu đi gánh nước thuê thì giữ lại, còn không cứ việc tùy nghi đi nơi khác
kiếm ăn. Bà mẹ thấy thế mừng lắm, cũng góp lời gần như năn nỉ con trai và nó hứa
sẽ nghe theo. Kể từ đó, nhóm gánh nước thuê của Tâm sứt đông lên, nhưng cũng rất
may vì thu nhập của lũ nhỏ lại không ngừng tăng. Đơn giản vì sau chiến tranh
dân số Hà Nội tăng nhưng nhà máy cấp nước không đủ công suất, thiết bị cũ kỹ
nên áp lực nước rất yếu, hệ thống ống dẫn nước cấp về các khu phố từ thời thuộc
Pháp hư hỏng nặng. Đã có một thời gian dài nước sạch sinh hoạt là một vấn nạn
khủng khiếp với người Hà Nội, nhất là dân phố cổ. Vòi nước máy công cộng ở chân
tháp nước tròn gần vườn hoa Hàng Đậu lúc nào cũng đông nghịt người xếp hàng rồng
rắn chờ lấy nước.
Đội quân gánh nước thuê của Tâm sứt mỗi người được cấp hai đôi thùng để xếp
hàng xoay tua tăng chuyến. Giá mỗi gánh nước cũng tăng từ năm hào lên một đồng,
rồi một đồng rưỡi. Nguyên tắc ăn chia của nó đề ra cũng rất sòng phẳng. Tâm sứt
là người nhận đặt hàng từ các gia đình có nhu cầu và đứng tại vòi nước trông
coi việc xếp hàng của các đôi thùng rải đều ra trong dòng người chen chúc đông
nghịt vốn rất phức tạp nên được hưởng một phần ba giá thuê, còn lại chia cho
quân lính của nó theo năng suất của từng người. Tiền kiếm được mỗi ngày nó đều
gửi cho mẹ cất giữ, chỉ bớt lại đủ dùng trong sinh hoạt. Tôi không ngờ chỉ
trong mấy năm, khi hệ thống cấp nước mới của thành phố do Hà Lan viện trợ đi
vào hoạt động, mẹ con Tâm sứt đã dành dụm mua được ngót nghét 5 cây vàng làm vốn
cho nó chuyển sang nghề khác, nghĩ cũng mừng…
Vào một ngày đẹp trời năm 1989, Tâm sứt đưa một cô gái tên
Thuần đến nhà mời tôi dự lễ cưới. Tôi pha ấm trà ngon mời hai đứa, lặng im quan
sát cô gái xinh đẹp, nom có chút chân quê nhưng tươi tắn, hồn nhiên rất dễ mến,
toan hỏi chuyện thì nó đã nhanh nhẩu nói trước: “Em với Thuần là cảnh đò nát đụng
nhau mà nên duyên chồng vợ thôi. Đời cô ấy cũng khổ lắm, thư thả em sẽ kể chuyện
sau.” Tôi đi dự lễ cưới gặp lại đám đàn em choai choai của nó ngày nào còn gánh
nước thuê, giờ thảy đều trưởng thành, có việc làm tử tế, chuyện trò rôm rả mãi
không dứt. Lúc này Hà Nội đã xóa bỏ chế độ tem phiếu được mấy năm. Người Hà Nội
vừa thoát ra khỏi cơ chế bao cấp, tự do buôn bán nhưng lại rơi ngay vào cơn
xoáy lốc của khủng hoảng tín dụng. Đồng tiến mất giá phi mã càng thôi thúc người
Hà Nội tràn ra mặt phố kiếm tiền bằng mọi giá để tự cứu mình.
Nhà có mặt tiền trên phố đua nhau đục tường mở quán, lập công ty. Cơ quan, trường
học cũng phá tường rào xây ki ốt cho thuê để tăng thu nhập cho mọi người. Có lẽ
không khí kinh doanh sôi động, có phần hỗn loạn ấy đã tác động mạnh đến vợ chồng
Tâm sứt. Nó mời tôi đến nhà ăn bữa cơm thân mật và giúp vợ chồng nó bàn chuyện
đổi mới làm ăn buôn bán như mọi nhà. Chờ lúc cô Thuần theo mẹ chồng ra chợ Hòe
Nhai bán nốt gánh hàng rau vào buổi chợ chiều, nó nói: “Hôm nay em mời anh đến
chơi là muốn nhờ giúp một việc lớn về hướng làm ăn sắp tới của hai vợ chồng.”
Tôi cười, thủng thẳng đáp: “Anh chỉ là thằng kỹ sư quèn, nghèo rớt, thần thế
không có thì giúp được gì.” Nó nắm tay tôi thật chặt khẩn khoản: “Điều em sắp
nói anh thừa sức giúp. Anh đừng vội từ chối làm em nản, anh nhé!”
Tôi nhìn vào mắt nó thấy lóe lên niềm khao khát đổi đời và sự kiên định, bên
trong mắt như có lửa nên cũng yên lòng xen chút tò mò hỏi: “Vậy em định làm gì,
tìm hiểu kỹ chưa, vốn liếng thế nào?” Dường như câu hỏi của tôi đã chạm đến cái
điều mà tự thẳm sâu bấy lâu nó nung nấu. Tâm sứt ngồi lăng im nhìn vào góc nhà
suy nghĩ một lát rồi mở lòng nói hết với tôi: “Hà Nội bây giờ nhìn bề ngoài chỉ
qua mấy năm mở cửa đã có vẻ sầm uất gấp bội lần so với thời bao cấp nhưng em vẫn
thấy nó hốn loạn và bất an. Giới kinh doanh hiện thời em tạm chia ba loại: Kẻ
có máu mặt, đa phần là dân phe trước đây có vốn tích lũy đua nhau mở tiệm vàng,
nhà hàng đặc sản, khách sạn mi ni; giới trí thức hoặc viên chức làng nhàng thì
lập công ty, thực chất là buôn nước bọt hoặc móc ngoặc với nhau moi tiền và vật
tư nhà nước; giới cùng đinh khố rách như tụi em chỉ có thể tràn ra hè phố mở
quán hàng ăn uống hoặc mua bán trao tay những đồ nhu yếu phẩm. Với hai loại
trên em không đủ sức, còn với loại thứ ba thì em không muốn. Suy đi tính lại,
bàn kỹ với mẹ và vợ, em quyết tâm mở riêng một hướng cho mình.
Số người trung lưu ở Hà Nội đang nhiều dần lên. Họ có một chút tiền để dành lại
không dám gửi ngân hàng vì tiền trượt giá khủng khiếp. Mặt khác họ cũng có nhu
cầu chuyển đổi chỗ ở rông rài hơn trước, không thể sống mãi trong cảnh chật chội,
tù túng như thời bao cấp. Vì vậy em sẽ tìm mua những miếng đất hoặc ngôi nhà
nát rộng chừng ba, bốn chục mét vuông trong ngõ, nhưng vẫn ở gần trung tâm, thuộc
bốn quận nội thành. Nhà nước vừa bỏ cơ chế bao cấp nên vẫn quen nếp cũ, quản lý
nhà đất rất dở hơi, lỏng lẻo, Việc mua bán nhà hoặc đất thổ cư trong phố chỉ cần
tờ giấy viết tay, có người hàng xóm bên cạnh làm chứng rồi ra phường đóng dấu
xác nhận là xong, chẳng mất một xu thuế nào. Em sẽ mua nhanh, xây nhanh và bán
chắc cũng rất nhanh một ngôi nhà như thế, vừa giúp được người vừa thu lợi không
nhỏ. Anh là người đi nhiều quen biết rộng, thấy ai có nhu cầu thì chỉ mối cho
em, anh nhé!…”
Tôi thật sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng trước sự hiểu biết sâu sắc, ý tưởng làm ăn
táo bạo, nhưng khá chắc chắn và lành mạnh của Tâm sứt. Điều nó nhờ cậy tôi cũng
có thể giúp vô tư, không nề hà hay đòi hỏi gì. Tuy nhiên, tôi vẫn còn băn khoăn
về vốn. Ở thời điểm năm 1989, giá một thửa đất hay ngôi nhà nát như nó vừa nói
dao động khoảng 5-6 cây vàng. Chi phí xây dựng ngôi nhà hai tầng trên đó cũng
khoảng 2-3 cây vàng nữa. Vốn tích lũy từ thủa hàn vi của nó, theo tôi biết chỉ
được ngót nghét 5 cây vàng. Vậy nó xoay đâu ra số vốn còn lại? Cô vợ của nó là
gái chân quê nghèo khổ mới ra Hà Nội chưa đầy ba năm làm sao có vốn góp vào để
cùng chồng hợp sức làm ăn theo kế hoạch mà chắc hai đứa đã bàn bạc kỹ lưỡng?!
Nghe tôi hỏi, nó chỉ cười hiền, dấm dẳng nói: “Ngay từ hôm đầu đưa Thuần gặp
anh mời dự cưới, em đã từng nói rằng, hai đứa chúng em là cảnh đò nát đụng nhau
mà nên duyên chồng vợ đấy thôi.”
Thế rồi sau đó, nó kể tôi nghe câu chuyện tình của hai đứa làm tôi thêm một lần
nữa kinh ngạc đến sững sờ…
Thuần là cô gái đẹp nức tiếng vùng quê miền biển huyện Nga
Sơn – Thanh Hóa. Nhà nghèo, 16 tuổi cô đã phải lên Hà Nội kiếm sống, gửi tiền về
quê giúp đỡ gia đình. Hai đứa gặp nhau ở một nhà hàng đặc sản trên phố Nguyễn
Trường Tộ, Tâm sứt làm bảo vệ, còn Thuần làm tiếp viên. Năm 1990 biên giới Việt-
Trung mở cửa, khách du lịch Tàu bằng giấy thông hành qua biên giới tràn vào Việt
Nam theo cửa khẩu dân dã Lũng Ngựu, thuộc thị trấn Đồng Đăng rất đông. Lẽ ra họ
chỉ được phép vào đến thị xã Lạng Sơn, nhưng người của công ty du lịch đã nhận
được bảo kê của trạm kiểm soát Đồng Bành trên Lạng Sơn và PA 18 của công an Hà
Nội nên cứ ngang nhiên dẫn khách Tàu la cà khắp phố phường Hà Nội. Họ đi chơi bằng
tiền nhà nước, nhưng với danh nghĩa khảo sát thị trường Việt Nam nên ăn tiêu xả
láng. Đàn bà thích lượn phố Hàng Bạc mua vàng lá hoặc đồ trang sức, còn đàn ông
đứa nào cũng thích chơi gái Việt, nhất là gái quê còn trinh.
Thuần bị bà chủ lừa bán trinh cho một lão bản người Quảng Đông – Trung Quốc. Mụ
này quá tham, lúc xong việc chỉ chia cho Thuần 100 đô gửi về quê, còn mụ ta ngồi
rung đùi hưởng 400 đô ngon lành. Tâm sứt biết chuyện sôi máu giang hồ, định cầm
dao lôi Thuần lên gặp mụ chủ đòi thêm tiền. Cô hoảng sợ, e sẽ có án mạng xảy ra
nên năn nỉ nó cho qua vụ này. Khi bình tĩnh lại, nó chợt nhớ mẹ mình tuy không
biết chữ nhưng rất thuộc truyện Kiều, thi thoảng bà vẫn ngâm nga vài đoạn giải
khuây. Có lần bà ngâm đến câu “Nước vỏ lựu, máu mào gà” liền giải thích cho nó
biết, đó là mụ Tú Bà dạy nàng Kiều cách giả làm gái còn trinh khi ngủ với
khách. Nó suy nghĩ hồi lâu, bàn với Thuần rằng mình đã lấm bùn thì bước tiếp sợ
gì người đời chê trách. Thật lạ, lúc ấy như có thần nhân mách bảo, nó nghĩ ra một
tuyệt chiêu, bí mật ra ngoại thành tìm bắt mấy con đỉa trâu mang về bỏ vào lọ.
Sau đó, nó dắt Thuần lên đàm phán với mụ chủ về kế hoạch bán trinh rởm cho các
lão bản người Tàu, nhưng tỷ lệ ăn chia sẽ đảo ngược Thuần bốn phần, mụ chủ một
phần. Mỗi lần đi khách, nó bày cho Thuần ăn mặc kiểu nhà quê, kẹp sẵn một con đỉa
vào ngón chân cái trước khi đi tất. Lúc hành sự, cô vờ giả nai, khép chặt hai
đùi, kêu khóc chống cự. Đợi khi khách nhọc phờ mới chịu mở đùi ra và sau đó chờ
khách sơ ý, cô co chân lột tất, bóp con đỉa cho máu tươi loang đầy trên ga trải
giường trắng muốt. Lũ đàn ông Tàu khựa háu gái, ngu ngốc lại vừa nốc nhiều rượu
nên tin chắc đã phá được trinh tiết cô gái Việt vì đó là máu người thật chứ
không phải “Nước vỏ lựu, máu mào gà” nữa rồi. Cứ thế, qua lần đầu thử nghiệm, đầu
đã xuôi đuôi sẽ lọt. Thuần và Tâm sứt, hai đứa phối hợp với nhau nhịp nhàng,
điêu luyện được hơn một năm, thu bộn tiền của các lão bản người Tàu, cũng là
lúc chúng hiểu và thật lòng thương nhau, quyết định bỏ nghề, tìm đến hôn nhân…
Tôi nghe chuyện thấy xót xa cho những phận người như vợ chồng Tâm sứt, tự nhủ
lòng sẽ để tâm giúp đỡ nó trong kế hoạch mưu sinh mới bằng những đồng vốn cay đắng,
tủi nhục ê chề…
Thời gian trôi mau, thoáng nhãng đã tròn 30 năm. Giờ nhớ lại
chuyện đời của Tâm sứt, tôi lại bồi hồi nhớ cái lần cùng nó hàn huyên, tâm sự
suốt buổi chiều trên du thuyền lộng gió giữa hồ Tây đang vào mùa sen nở. Nó cầm
tay tôi rưng rưng xúc động, nhắc lại lời của mẹ mình lúc lâm chung. Bà dặn con
trai rằng ở đời ai chẳng muốn sung sướng, nhưng phải biết thế nào là đủ. Con
người ta khi đã lăn vào trường đời kiếm sống, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải
biết chọn điểm dừng; như người đi đường thấy cột mốc để biết tiến lên hay lùi lại;
như người thợ mộc sẵn đường mực đã nảy để đục đẽo cái cây thế sự. Nó hứa với
tôi sẽ dành suốt phần đời còn lại làm theo lời mẹ dặn dò để tích chữ Đức, chữ
Phúc cho con cháu sau này. Tôi tin nó sẽ làm được, thầm cảm phục bà mẹ bán rau,
mù chữ của nó. Bà thật tuyệt vời, hơn hẳn nhiều phu nhân quyền quý tôi gặp
trong đời. Nhớ bà, tôi lại thèm ăn món dưa gang muối, món khoái khẩu một thời
bao cấp khốn khó…
SG, mùa thu 2019
Vũ Ngọc Tiến