Kinh sách khuyên học Phật dù một câu một chữ cũng… quý!
Lục tổ Huệ Năng lúc còn gánh cũi trên rừng chỉ nghe người ta tụng câu “Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà hoát nhiên đại ngộ. Lại nhớ chuyện một thiền sư
cho đệ tử mỗi một chữ “Vô” để làm “thoại đầu” mà thiền tập…
Các bậc tôn túc tự xưa đã đúc kết những câu những chữ chẳng đáng cho ta
ngẫm ngợi đó sao? Chẳng hạn “trà Tào Khê”, “cơm Hương Tích”, “thuyền Bát
Nhã”, “ trăng Lăng Già”!
Trà Tào Khê
Huệ Năng từ phương Nam lặn lội đến Huỳnh Mai bái Ngũ tổ Hoàng Nhẫn. Tổ hỏi:
“Ngươi từ phương nào đến, muốn cầu vật chi?” Huệ Năng đáp: “Đệ tử là dân Lãnh
Nam, từ xa đến lễ Thầy, chỉ cầu làm Phật, không cầu gì khác!” Tổ bảo: “Ông
người Lãnh Nam quê mùa, ít chữ, làm sao kham làm Phật?” Huệ Năng đáp: “Người có
Bắc Nam chớ Phật tánh đâu có Nam Bắc. Kẻ quê mùa này cùng với Hòa thượng chẳng
đồng, nhưng Phật tánh đâu có sai khác!” Hoàng Nhẫn giật mình. Cho xuống bếp…
bửa củi, nấu cơm, giã gạo!
Không lâu sau đó, Ngũ Tổ gọi riêng truyền dạy cho, rồi trao y bát, lẻn đưa
Huệ Năng xuống thuyền trốn về phương Nam xa xôi nơi có dòng suối mát Tào Khê tu
tập. Huệ Năng trở thành Lục Tổ từ đó, ngày ngày uống ngụm trà Tào Khê, bắt đầu
truyền thụ dòng Thiền “đốn ngộ”. Tâm truyền tâm. Bất lập văn tự. Kiến tánh
thành Phật. Lấy Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc.
Huệ Năng dạy học trò nghiêm khắc. Đệ tử từ xa tìm đến tham vấn, xin ấn chứng
mà chưa tỏ ngộ, chưa thấy “bổn lai vô nhất vật”, chưa nhận ra “Thức tự tâm
chúng sanh/ Kiến tự tâm Phật tánh”, còn loay hoay dính mắc mãi những đâu đâu
thì thường bị quở phạt, trách mắng, cảnh tỉnh.
Một hôm có người học trò Vĩnh Gia Huyền Giác đến Tào Khê. Huyền Giác xuất
gia từ nhỏ, tinh thâm Thiên Thai tông, nhờ xem Duy Ma Cật Sở Thuyết mà tâm địa
bừng ngộ.
Gặp Huệ Năng, ông đi quanh ba vòng rồi chống tích trượng đứng yên.
Huệ Năng trách:
– Phàm làm Sa môn phải đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Đại đức từ đâu
đến mà lớn lối ngạo mạn vậy?
Huyền Giác trả lời:
Sinh tử sự đại/ Vô thường tấn tốc (sinh tử việc lớn, vô thường mau chóng, lễ
nghĩa làm chi!).
Huệ Năng đáp:
Sao không nhận cái lý (thể) “Vô sinh” và thấu rõ (liễu) cái nghĩa “không
chóng”.
Huyền Giác đáp:
“Thể” tức vô sinh, “liễu” vốn không chóng.
Huệ Năng khen:
Đúng vậy! Đúng vậy!
Thế rồi Huệ Năng cùng Huyền Giác đối đáp, càng lúc càng sôi nổi.
Đoạn, Huyền Giác xin kiếu về, Huệ Năng hỏi.
Về chóng thế sao?
Rồi, mời Huyền Giác ở lại Tào Khê với mình một đêm để cùng uống trà… mà đàm
đạo!
Về sau, Huyền Giác viết Chứng đạo ca:
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân,
Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân?
Vô minh thực tánh tức Phật tánh,
Ảo hoá không thân tức Pháp thân.
(…)
Cơm Hương Tích
Hôm đó Duy Ma Cật tiếp Bảo Tích và năm trăm vị vương tôn công tử, thiếu gia,
con nhà viên ngoại- là những Bồ-tát tại gia tương lai- tại cái thất trống trơn
của ông ở thành Tỳ-da-ly.
Giữa lúc mọi người đang sôi nổi hào hứng bàn những chuyện cao xa như hữu lậu
với vô lậu, hữu vi và vô vi, sinh tử và niết bàn… thì Xá-lợi-phất, vị đệ tử trí
tuệ bậc nhất của Phật, lên tiếng đưa mọi người về “mặt đất”: “Sắp đến giờ ăn
rồi. Các vị Bồ Tát này sẽ ăn thức gì đây?”.
Duy-ma-cật: “ Xin đợi cho giây lát, tôi sẽ khiến quý vị được thứ thức ăn
chưa từng có”.
Thức ăn chưa từng có ư? Với các vị vương tôn công tử, thiếu gia, con nhà trưởng
giả này thì cao lương mỹ vị có gì là lạ, tổ yến hồng sâm, nem công chả phượng
có gì là lạ.
Họ háo hức chờ đợi Duy-ma-cật mang đến thứ thức ăn “chưa từng có”!
Thì ra… Duy-ma-cật mang đến một mùi hương! Một mùi hương thơm. Thứ “thức ăn”
xin được từ cõi Chúng Hương của Phật Hương Tích! Đó là một thứ “thức ăn” chưa
từng có.
Duy-ma-cật liền nhập vào Tam-muội, dùng sức thần thông khiến cho đại
chúng nhìn thấy về hướng trên, cách đây nhiều cõi Phật liên tiếp nhau như số
cát của bốn mươi hai con sông Hằng, có một cõi nước tên là Chúng Hương, hiện có
đức Phật hiệu là Hương Tích ngự tại đó. Nước ấy có mùi thơm bậc nhất đối với
các mùi thơm của người ta và chư thiên ở các thế giới chư Phật mười phương.
Khắp cõi ấy, mùi thơm tạo ra lầu gác. Người ta đi trên đất bằng mùi thơm. Các
cảnh hoa viên và vườn tược đều bằng mùi thơm. Từ nơi thức ăn, mùi thơm bay tỏa
ra khắp vô lượng thế giới mười phương.
Duy-ma-cật chỉ xin “chút xíu thức ăn thừa” của Phật Hương Tích để đãi các
vương tôn công tử tại Tỳ-da-ly hôm ấy. Chỉ một chút xíu thức ăn thừa
thôi nhé. Một chút thức ăn thừa thôi cũng đã là quá đủ, bởi thứ « thức ăn chưa
từng có” đó là một thứ « vô tận hương » đến từ bên trong của người có giới đức.
Chính là hương giới đức. Một thứ hương có thể “bay cao, bay xa, bay
ngược chiều gió”!
Hương thơm giới đức không thể có trong một ngày một buổi. “Hương” thơm đó
phải được “Tích” chứa từ từ mới đầy dần lên được, mới sung mãn, mới tràn trề…
mới “ngát hương”!
Nhờ giới đức, cõi Chúng hương đó của Phật Hương Tích chẳng cần phải
thuyết pháp bằng văn tự mà chỉ dùng các mùi hương là đủ. Mọi chúng sanh nhờ
hương giới đức mà đắc nhập luật hạnh. Bồ-tát ở cõi đó mỗi vị đều ngồi nơi cội
cây thơm, nghe mùi thơm vi diệu kia mà thành tựu hết thảy các phép Tam-muội Đức
tạng. Chẳng cần phải nói năng cho phiền hà, gây tranh cãi, hí luận. Bởi Giới
là gốc. Có Giới thì có Định, có Huệ đó vậy.
Thuyền Bát Nhã
“Bát Nhã” lúc nào cũng phải có… “thuyền”! Nhưng có lúc “bè” cũng được… Có
lần Phật bảo các đệ tử: Qua sông rồi còn vác bè theo chi cho nặng!
Quán Tự tại Bồ tát hành thâm Bát Nhã ba-la-mật-đa (Prajna Paramita) thời
chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Bát Nhã luôn là Bát Nhã “Ba-la-mật”. Prajna paramita. Para: bờ kia, bên kia.
Mita: đến. Paramita: là đến bờ kia, là “đáo bỉ ngạn”. Từ bờ mê qua bến giác.
Qua bờ kia thì “Độ nhất thiết khổ ách” được ư? Được. Với điều kiện hành
thâm Bát Nhã. Thấy rõ năm uẩn đều Không. Chẳng những vậy, khi đã thấy
không tướng, thực tướng vô tướng, đã sống với Bát Nhã, sống trong Bát Nhã thì…
cái núi Tu Di to đùng kia có thể nhét vào hột cải, nước bốn biển mênh mông nọ
có thể cho vào một lỗ chân lông…!
Một khi lý đã vô ngại thì sự vô ngại. Lý sự đã vô
ngại thì sự sự vô ngại…
Nhưng, thuyền có đi thì có về, có qua thì có lại. Các vị Bồ-tát theo nguyện
vì người mà nấn ná cõi Ta-bà, qua qua lại lại giữa đôi bờ. Thuyền thong dong
qua lại mà cũng chỉ quanh quẩn ở lòng ta, tâm ta.
Con thuyền vẫn đi có khi trên dòng nước xuôi, có khi trên dòng nước ngược.
Phải chèo phải chống. Không dễ mà lõng buông tay lái. Bố thí. Trì giới. Nhẫn
nhục. Tinh tấn. Thiền định. Trí huệ.
Bát Nhã, Prajna, là cái Biết trước cái Biết. Pra là trước, Jna là biết. Cái
biết trước cái biết là cái biết hiện tiền, biết “như thực”, không qua suy luận,
phê phán, biện biệt. Cho nên nó đã là Trí chớ không còn là Thức nữa. Hay nói
cách khác Thức đã chuyển thành Trí.
Trăng Lăng Già
Chưa có khi nào Phật cười to như thế, cười sảng khoái, “cười hùng mạnh
như vua sư tử…” giữa đêm trăng Lăng Già cùng với chúa đảo Ravana và
thần dân của ông, với sự có mặt của hàng ngàn Bồ tát.
Ấy bởi Phật đã thuyết giảng chân lý giúp cho mọi người chuyển
hóa tâm thức, vượt ngoài tri thức lý luận, vượt cả tam-ma-địa thông
thường để mà an trú trong Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân
địa, cảnh giới cao nhất, nhập vào Như lai tạng, bằng tự chứng tự
nội…
Giữa đỉnh núi ở trên đảo Lăng Già khi nhìn những ánh trăng bập bềnh trên
sóng nước, vỡ tan, vỡ tan theo từng con sóng, Phật đã cất tiếng cười to.
Ánh trăng vỡ tan và gom tụ lại. Rồi vỡ tan, rồi gom tụ lại. Hoa đốm hư không.
Dấu chân chim ngang trời. Bức tranh vân cẩu. Nó vậy đó. Thế giới muôn hồng ngàn
tía cũng chỉ do tâm thức tạo ra. Nó như huyễn, nó như mộng, như bào ảnh,
như sương mai, như ánh chớp… Bên dưới đó, là Như Lai tạng, là A-lai-da vẫn
im ả, “như như bất động”. Chỉ có cái thức tâm phân biệt của ta quậy phá chính
ta. Cái tâm thanh tịnh bổn nhiên kia vẫn im ắng. Không lay động. Vẫn bất sinh
bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Vì thức khởi mà sự sinh. Thế giới chỉ là tâm thức của chính mình. Chúng sanh
là ảo vật do ảo thuật gia là ta vẽ bày để rồi tự mình phan duyên, dính
mắc, khổ đau…
Bồ tát thấy biết như vậy, thấy biết nhứt thiết duy tâm tạo, thấy chúng sanh
là ảo vật do chính mình tạo ra rồi thức tâm phân biệt, chấp trước mà khổ đau
bèn nói thẳng cho mọi người cùng biết. Nói thẳng ra như thế mới là “lòng từ
chân thật”, không giấu giếm, che đậy, không hù dọa, gạt gẫm nhau chi! Vì như
huyễn, mà có lòng Từ. “Trí chẳng đắc có không/ Mà hưng tâm đại bi”.
Tâm bất sinh thì vô sinh. Vô sinh thì vô sự. Dứt mọi phân biệt của thức tâm
thì không bị quậy phá nữa. Ở đó là Như Lai tạng. Nhất thiết chủng
trí. Đại viên cảnh trí.
Thấy biết Như Lai, thì sống với Như Lai, sống trong Như Lai, sống
cùng Như lai vậy.
Đỗ Hồng Ngọc
(6.2019)