03 December 2019

NỖI SỢ VÀ CÁI CHẾT - Nguyệt Quỳnh


Cái chết là nỗi sợ lớn nhất trong mọi nỗi sợ của con người. Tuy nhiên, có những người đã gắng vượt qua nỗi sợ, đi cạnh thần chết… để được Sống. Và, cũng có rất nhiều người, vì sợ đã chọn một cuộc sống… như đã Chết.
Có câu chuyện cười thời XHCN:
Giữa đêm, mật vụ KGB gõ cửa nhà một nhà văn Nga.
– Ni-cô-lai Sa-ka-rốp có sống ở đây không?
– Không.
– Vậy anh tên gì?
– Ni-cô-lai Sa-ka-rốp.
Gã mật vụ tức giận, trợn tròn mắt:
– Sao vừa nãy mày nói mày không sống ở đây?

– Thế các ông bảo Sống như thế này mà là sống à!
Ở thời đại chúng ta, đặc biệt ở tại VN, nỗi sợ lớn nhất của bậc làm cha mẹ là sợ con mình gặp nguy hiểm. Chúng ta muốn bảo vệ chúng bằng mọi giá. Thế nhưng một nghịch lý đang xảy ra tại Hồng Kông, chưa bao giờ nhà tù ở đây lại giam nhốt nhiều tù nhân trẻ tuổi như vậy. Theo một bản tin của BBC có vào khoảng 2700 người biểu tình bị chính quyền bắt giữ thì trong đó có tới 750 em dưới 18 tuổi, trong số này lại có 104 em dưới 16 tuổi, và có em chỉ vừa 12 tuổi.

Người Hồng Kông dũng cảm ư?
Không! họ sợ. Họ biết rằng họ đang phải đối đầu với một Trung Quốc hùng mạnh và tàn bạo. Họ cũng không che dấu nỗi sợ hãi của mình. Hàng ngày, họ hát với nhau, nói với nhau rằng họ đấu tranh vì nỗi sợ hãi trong đầu, và niềm hy vọng thúc họ tiếp tục tiến lên. Họ nắm tay các con của mình, cả những học sinh tiểu học, kéo chúng cùng ra đường. Họ dạy chúng phải biết đối mặt với nỗi sợ, phải kiên gan đạp trên nỗi sợ mà đi tới. Cuộc chiến đấu của họ như một bản trường ca tráng lệ về tự do.
Trên đời này không có gì là không thể, và không có cuộc chiến nào là hoàn toàn mới mẻ. Việt Nam đã từng phải đối đầu với một đế chế Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới. Ngày ấy, quân Mông Cổ đã chiếm được Turkestan, làm cỏ Trung Á, đuổi vua Hung-ga-ry, chiếm lĩnh nước Nga và kê ván trên đầu các tướng chỉ huy liên quân Nga mà mở tiệc… Có cái gì bảo đảm là Đại Việt sẽ không bị bóp nát? Điều đặc biệt của quân dân Đại Việt ngày xưa và người Hồng Kông ngày nay là cách họ đối diện với nỗi sợ hãi của chính mình.
Tự do của nhân loại luôn luôn phải trả bằng hy sinh, bằng máu và nước mắt. Điều này cũng chứng minh một thực tế rằng dân tộc nào, cá nhân nào, không chịu trả giá thì họ không thể có, và không xứng đáng được sống trong một xã hội công bằng tươi đẹp. Bên cạnh đó, nếu bạn chưa một lần chịu mất mát hay đổ máu vì tự do, thì hãy nhớ chúng ta cũng đang thụ ơn những người đã ngã xuống cho tự do của chính mình.
Mỗi một cá nhân, mỗi một quốc gia đều có những trở ngại riêng như ngọn núi buộc mình phải vượt qua. Sở dĩ đa số người Hồng Kông không nhận mình là người Trung Hoa đại lục chỉ vì họ ghê sợ những gì ĐCSTQ gây ra cho người dân ở đại lục. Họ lao vào đấu tranh để gìn giữ bản sắc của mình. Họ cương quyết chống lại cái xấu, cái ác, để được sống còn và vươn tới ước mơ. Họ biết rằng họ không được quyền lùi bước, bởi khi họ thua cuộc, một lớp người khác sẽ sống dậy. Dưới sự lãnh đạo của ĐCSTQ những phẩm giá cao đẹp của con người sẽ không còn.
Có ai dám nói một dân tộc đã chiến thắng đế chế Nguyên Mông đến ba lần lại là những kẻ nhu nhược? Nhưng thử hỏi, ngày hôm nay có ai dám vỗ ngực tự xưng mình là con cháu của những chiến binh đã khắc trên cánh tay hai chữ “Sát Thát”?!
Hôm nay, người Hồng Kông nhìn thấy chính họ qua cô y tá bị trúng đạn túi đậu làm cô hỏng một mắt. Hàng nghìn người đã dùng bông băng để băng một mắt phải của mình và mang theo con mắt rỉ máu để xuống đường. Các tổ hợp y tế thì đình công vô thời hạn.
Mai kia, người Hồng Kông sẽ chẳng khác gì chúng ta. Chẳng ai nhìn thấy mình qua hình ảnh tang thương của một ngư dân. Tôi không thấy chính mình là một tôi ngư dân, là một tôi dân oan, là một tôi nô lệ, … tôi sống không có một giá trị chuẩn mực. Tôi sống sợ hãi, ích kỷ, vơ vét, quơ quào,… từ một anh chủ tịch xã cho đến một Đô đốc Tư lệnh hải quân.
Hôm nay tuổi trẻ Hồng Kông xuống đường mang theo di thư trong túi áo. Sự khẳng định của họ làm thế giới xúc động. Tôi nghĩ đến nỗi cô đơn của các nhà hoạt động VN mà trào dâng niềm kính phục. Họ nhắc nhở tôi về sự tồn tại của con người với lịch sử. Từ một phụ nữ đơn phương chống BOT bẩn cho đến các nhà hoạt động đang bị cầm tù.
Họ có sợ không? Tôi biết họ sợ, nhưng họ chọn hành động để thay đổi xã hội. Họ chọn cam go, chọn mất mát, để dựng lại những điều tốt đẹp từ những suy sụp hôm nay. Người dân ở các nước Cộng sản trên thế giới đều đã phải trải qua thời gian cạn kiệt này. Nhưng Việt Nam có vượt qua được ngọn núi của mình hay không thì còn tùy thuộc vào sự lựa chọn của số đông – tức là sự lựa chọn của chính bạn.
Nói về nỗi sợ tôi lại nghĩ đến thi sĩ Paul Éluard. Paul không những nổi tiếng với những thi phẩm về tự do, ông còn là một người chiến đấu cho tự do của quê hương ông. Nếu như trong thời chiến tranh Nam Bắc, thỉnh thoảng chúng ta vẫn nhặt được truyền đơn thì người dân Pháp cũng thế. Trong suốt thời gian bị phát xít Đức chiếm đóng, máy bay của quân đồng minh Anh đã rải hàng ngàn truyền đơn xuống đất Pháp. Điều thú vị ở đây là những tờ truyền đơn ấy chính là bài thơ mang tên Liberté. Paul Éluard đã truyền cảm hứng cho nhân dân Pháp đứng dậy chống lại quân Nazi Đức.
Nhưng Paul cũng viết về nỗi sợ, cũng trăn trở về nỗi sợ như chúng ta. Tôi nghĩ tự do và nỗi sợ cũng giống như hai mặt của một đồng tiền. Chỉ khi nào bạn quyết định không tiếp tục giam mình trong sợ hãi, giây phút đó bạn sẽ là người tự do.
Xin được khép lại bài viết ở đây bằng một bài thơ ít nổi tiếng của Paul Éluard. Tôi nhớ đến nó khi nhìn hình ảnh của cô gái trẻ bị trói tay bởi cảnh sát Hồng Kông. Liệu chúng ta có gì khác với người lính của tướng Franco không?
Bài thơ này Paul Éluard viết về tâm tư của một người lính chỉ vì sợ hãi đã chống lại đồng bào mình:

Tướng Franco đã bắt tôi gia nhập quân đội nên tôi trở thành một thằng lính đói rách ốm o.
Tôi không đào ngũ, tôi sợ, quý ngài biết đấy, tôi sợ họ bắn tôi,
Tôi sợ – cho nên, trong quân ngũ, tôi đã chiến đấu để chống lại công lý, chống lại tự do.
Dưới những tường thành ở Irún. Và cái chết cũng bắt lấy tôi như thế mà thôi.
(Lời Ghi Lên Bia Mộ Của Một Nông Dân Tây Ban Nha – Paul Éluard)


Nguyệt Quỳnh