Mùi thơm khăn áo ngây ngất đi vào cổ tích tôi (1)
Chị biết anh vì hai gia đình ở chung xóm gần chợ Gia Định. Chị cũng là bạn
cùng lứa với em anh từ trường tiểu học cho đến lúc vào trường Trưng Vương. Anh
học Khoa Học Sài Gòn. Thỉnh thoảng anh dừng chân ở quán nhà chị ở đầu ngõ, chào
hỏi vu vơ, nói đôi ba câu chuyện. Kêu chị là bé dù anh chỉ hơn chị chừng 5
tuổi. Vậy mà chị lại thích, chị có cảm giác mình thật bé bỏng khi đứng bên cạnh
anh thật cao lớn, cần sự che chở của anh.
Năm lên lớp 11, chị thấy anh vắng mặt một thời gian ngắn, qua nhỏ bạn biết
anh động viên vào Thủ Đức. Rồi anh lại hiên ngang xuất hiện sau đó với bộ đồ
hoa dù và nón Beret đỏ. Cuộc tình bắt đầu, với người yêu là một Thiên Thần Mũ
Đỏ.
Ở tuổi 17, chị lớn dần trong tình yêu trầm lặng của anh, trở thành một thiếu nữ
chín chắn, trong khi đó đời sống nội tâm cùng sự lo sợ triền miên đôi khi khiến
chị cảm thấy lạc lõng giữa chúng bạn ở lứa tuổi ô mai.
Niên học 1974-1975, chị bước vào năm thứ nhất Văn Khoa. Anh vẫn miệt mài với
đơn vị ở những chiến trường xa. Những lá thư yêu thương anh gửi chị chỉ ghi cái
địa chỉ KBC 4794 lạ hoắc.
Cuối tháng Hai 1975, anh bất ngờ có mấy ngày về phép. Đêm trước ngày trở lại
đơn vị, anh đưa chị đi ăn chè góc Bạch Đằng/ Nguyễn Huệ. Ngồi quán chè, cùng
nhìn ra sông Saigon, chị bỗng nghe anh nói bằng một giọng nhẹ nhàng, “Ngày mai
anh trở ra lại mặt trận. Em ở nhà bình an. Chuyến đi này không biết bao giờ anh
về thăm em được. Tình hình rất căng. Đôi khi anh nghĩ may ra anh bị thương thì
chúng mình mới có cơ hội để thành vợ chồng!”
Lẫn trong tiếng nói, chị tưởng như bên tai mình có hơi thở của anh. Vị ngọt
của muỗng chè bỗng trở thành vô vị nơi cuối lưỡi. Chị quay lại nhìn anh. Hai
bàn tay tìm nhau. Không, không thể chờ đến khi anh bị thương… Nhận ra bàn tay
mình run rẩy trong tay anh, chị nói “Thôi mình về đi anh”.
Khi lặng lẽ rời quán chè bờ sông, anh không cầm tay chị. Chắc anh không hiểu
sao buổi hẹn hò bỗng bị chị cắt ngắn, đòi về. Nhìn vẻ thất vọng một cách tội
nghiệp trên khuôn mặt sạm đen của anh, chị thấy thương anh chi lạ. Phải cố gắng
lắm chị mới có thể nói với anh bằng giọng bình tĩnh: “Mình về nhà trọ của anh
đi, em có chuyện muốn nói.”
Ngay khi cánh cửa phòng riêng của anh trong nhà trọ vừa khép lại, chị đứng
trước anh, nhìn anh, rồi nói như sợ không còn cơ hội nào khác “Đêm nay em sẽ ở
lại đây. Em muốn chúng mình thuộc về nhau đêm nay. Em không muốn chờ đợi thêm
nữa.”
Không chờ cho anh kịp phản ứng, chị rơi mình vào vbòng tay anh, mặt đầm đìa
nước mắt. Cả hai xớ rớ ngồi cạnh giường, luống cuống đến tội nghiệp. Bên cho
với tê tái khắc ghi. Bên nhận trong nghiệt ngã đắn đo. Sau đó, cả hai dựa sát
vào nhau; anh trầm tư ôm vai chị, che chở trìu mến, chị ngã đầu trên tay anh,
nhìn lên trần nhà, mủi lòng, mặc cho nước mắt tự nhiên tuôn trào.
Thương anh, thương mình, lo sợ cho số kiếp con người mong manh. Chị biết chị
vừa đi ngược sự giáo dục gia đình, nhưng chị không cảm thấy nuối tiếc, vì chị
nhận rõ một khi tình yêu và hy sinh để trở thành một thì không có gì tuyệt đẹp
hơn là giờ phút bên nhau trong hiện tại. Y như câu truyện “Một Thời Để Yêu Một
Thời Để Chết.”
*
“Này em khăn áo vẫn còn nếp nhầu
Lược gương đâu có nỡ nào quên bóng hình
Này em, chăn gối vẫn còn ấm nồng
Chỉ người năm cũ như bóng trăng gầy liệm cuối sông…” (1)
Đêm đầu tiên và cuối cùng có nhau, chị biết đơn vị dù của anh đang hành quân
vùng cao nguyên.
Ngày 10 tháng Ba năm 1975, Ban Mê Thuột thất thủ. Sau đó có tin Pleiku,
Kontum bị rút bỏ.
Từ vùng hành quân, anh nhờ lính hậu cứ nhắn tin cho chị biết. Và đó là lần
cuối cùng chị được tin anh.
Cuối tháng 3, chị được biết TĐ của anh cùng chung số phận với Lữ Đoàn 3 ND,
đánh cho đến người cuối cùng ở Khánh Dương, rồi phân tán mỏng. Trên đường rút
quân, đơn vị đã không tìm thấy anh. Mất tích? Tử thương? Bị bắt làm tù binh?
Quả là tội nghiệp cho một thiếu nữ như chị, với chỉ danh nghĩa người yêu của
lính, xuôi ngược chạy tìm tin tức của anh, từ hậu cứ TĐ đến Bộ Tư Lệnh SĐ, hoặc
ủ rũ chờ đợi, nghe ngóng tin tức ở nhà anh.
Ngày 29 tháng 4, người anh cả của chị, một sĩ quan HQ, chạy nhanh về nhà,
hối thúc cha mẹ, thằng em trai và chị ra bến Bạch Đằng, lên thuyền rời nước.
Như một người máy trôi theo dòng đời, chị ra đi mà lòng quặn đau, bất định,
biết rằng từ đây mọi người vĩnh viễn mất nước. Và chị, vĩnh viễn xa rời và mất
luôn cả anh.
Ngày đến trại Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas, chị mới biết mình có thai
được trên 2 tháng. Trong khi cả gia đình chị bấn loạn, cá nhân chị vừa lo lắng
vừa hân hoan với mầm sống của anh trong người. Qua bao nhiêu gian nan, cam go
chịu khổ chịu cực, chịu cảnh gái chưa chồng nhưng có con, chị can đảm vượt
thoát mọi thử thách, mọi e dè để cuối cùng định cư ở Fort Polk, tiểu bang
Louisiana với một người chồng Mỹ vào năm 1984. Chị cố tạo cho mình một vườn hoa
trái nơi chị nhận làm quê hương thứ hai, nhưng đa số là trái ngang trái trắc
trở, trái sầu trái đắng, trái chua trái cay, là tiềm ẩn từ bao thôi thúc vương
vấn, bao bùi ngùi luyến thương của mất nhau, hoài nhau không thể chối từ mà
cũng chẳng thể vứt bỏ vì đó là những bám víu giúp chị can đảm sinh tồn.
*
Gần cuối thập niên 80, tôi tình cờ gặp chị trong một phiên trực tại phòng
cấp cứu của Bệnh Viện Baynes Jones Army Community tại Fort Polk, tiểu bang
Louisiana, nơi vốn là bản doanh của sư đoàn 5 cơ giới Hoa Kỳ đã có mặt tại
chiến trường VN. Con gái chị, với khuôn mặt Việt Nam, khoảng 13-14 tuổi, té xe
đạp, không bị thương tích nặng ngoại trừ vài vết thương trầy trụa ngoài da.
Nhìn thấy tôi là một bác sĩ người Việt, chị mừng rỡ bắt chuyện. Kể từ đó, thỉnh
thoảng chúng tôi gặp nhau đôi lần, cũng tại bệnh viện quân đội Mỹ, có luôn cả
người chồng Mỹ của chị là một thiếu tá hồi hưu từng tham chiến 2 lần tại Việt
Nam.
Vài năm sau chồng chị qua đời vì bệnh tim, chị trở thành bệnh nhân của tôi
tại phòng mạch tư. Đó cũng là thời gian tôi khám phá chị bị ung thư vú và
chuyển chị qua bác sĩ chuyên khoa. Trong một lần nói chuyện dài hơn, chị mở lời
tâm sự về chuyện tình của chị trong chiến tranh VN, về người cha của con gái
chị. Chị cho biết chị cầu nguyện hàng ngày hầu mong biết tin tức về anh, sống
chết như thế nào sau trận đánh ở Khánh Dương, nhưng không mấy hy vọng cũng như
đã từng cố gắng tìm kiếm qua các cộng đồng người Việt tỵ nạn trong bao năm qua.
Không lâu sau đó, chị rời vùng Fort Polk trở về sinh sống với cha mẹ chị ở
Springdale, tiểu bang Arkansas.
*
Chào bác sĩ. BS. còn nhớ tôi không?? Tôi là Kim Tiên đây…Vâng, đúng rồi đó.
Vâng. Cám ơn BS. Bố mẹ tôi bình yên… Con gái tôi vừa vào năm thứ nhất Đại học
cộng đồng tại đây. Dạ cám ơn BS. Chắc cháu sẽ vui khi biết BS vẫn còn nhớ đến
cháu và gởi lời thăm… Thưa BS. hiện tại ung thư của tôi ở giai đoạn cuối, các
bác sĩ bên này cho biết tôi còn sống được khoảng 6 tháng nữa… Dạ. Cám ơn BS… Dạ
không sao! Tôi muốn báo một tin rất vui cho BS. biết là tôi vừa tìm được tin
tức của cha con gái của tôi rồi… Cám ơn BS chung vui với chúng tôi. Vâng, anh
ấy vẫn còn sống tại Việt Nam… Dạ, tôi may mắn tìm ra được em gái của anh, cũng
qua Mỹ với chồng theo chương trình H.O cuối năm 1991. Nhờ trời thôi BS ạ…Dạ,
qua chương trình Nhịp Cầu Thân Yêu của đài Little Sài Gòn loan báo… Thưa BS.,
chính tôi cũng không biết được tình trạng của anh ra sao! Em gái của anh nhất
định không chịu nói nhiều. Chỉ cho địa chỉ một người trung gian… Nên tôi quyết
định về VN một chuyến, trước là để thăm mộ bên nội ngoại của tôi, sau sẽ tìm
đến thăm anh… Dạ, tôi cùng đi với một người bạn thân quen trong nhà thờ, tôi
không thể chờ con gái tôi cùng đi chung vì cháu rất bận học, mà tôi thì không
còn bao nhiêu thì giờ nữa… Dạ có gì tôi sẽ cho BS biết sau… Cám ơn BS. Tôi sẽ
cố gắng giữ gìn sức khỏe trong chuyến đi.
Gần một tháng sau, chị gọi điện thoại cho tôi, nói nhanh giữa những cơn thở
nặng và xúc động. Câu chuyện nhiều lúc bị ngắt khoảng bởi những im lặng và
tiếng sụt sùi.
*
“Sài Gòn là đây sao em? Đường không còn lối người chen chân.
Sài Gòn là đây sao em? Lạ sao giọng nói người không quen!
Biết mấy tâm sự đành lãng quên. Xôn xao kỷ niệm lạc lối tìm…” (2)
Sau nhiều ngày bận rộn đi thăm bà con gần xa và viếng mộ đại gia đình ở Thủ
Đức, chị mệt mỏi trở về Sài Gòn, ngỡ ngàng bước cô đơn giữa lòng phố đầy người.
Ngày rời Sài Gòn với mảnh giấy ghi địa chỉ của anh do một người bà con với
em của anh cho, chị đi xe khách đến Ninh Hòa. Từ bến xe, chiếc honda thồ chở
chị đi tiếp trên con đường đất đến một làng khá xa thị xã. Đường về lối mới sao
chật hẹp thu nhỏ, hoàn toàn xa lạ trong tâm trí, không một hương thơm vương
vấn. Không một tiếng gọi quen thuộc. Không một câu hò ạ ơ. Và trời cũng chẳng
mưa để làm ướt lòng người trở về. Ngược lại trời đổ nắng đến hoa cả mắt, nóng
cháy cả người kèm theo bụi đường đỏ làm chị ngột ngạt giữa bao nhung nhớ chất
chứa màu kỷ niệm của thuở tình tự.
Sau vài lần ngưng dọc đường hỏi thêm chi tiết, xe ngừng trước một căn nhà
nhỏ xơ xác, tội nghiệp với mái tôn đổi màu theo thời gian, có vài bụi chuối
xung quanh cùng hàng cây dâm bụt phía trước. Không chần chờ, chị bước vội vào
nhà. Đập ngay vào mắt là một thân hình cao, gầy gò ngồi trên một sạp tre, lưng
xoay ngược hướng chị đi vào, bên cạnh là một cặp nạng. Chị ngập ngừng lên
tiếng, kêu nhẹ tên anh. Thân hình ấy quay nhanh về hướng chị, cùng lúc quờ
quạng chụp tìm đôi nạng gỗ. Trước mắt chị là một hình hài với chân phải cụt lên
tận đầu gối, áo quần xốc xếch, tóc tai bung xung. Chị bật khóc chạy đến gần,
trong một thoáng kịp nhìn thấy 2 vũng mắt lõm sâu không có tròng mắt. Chị đột nhiên
khuỵu người xuống trên sàn đất, như thể toàn sức lực dành cho chuyến đi bỗng
cạn kiệt. Cùng lúc ấy, bóng một người đàn bà đi nhanh từ bếp nâng chị dậy.
Anh bị thương nặng ở chân trên đường rút quân, cố gắng lết xa khỏi trận
chiến và ẩn núp trong bụi rậm. Ngày hôm sau, địch tìm thấy anh và bắt anh làm
tù binh. Anh nghĩ vết thương ở chân phải có thể lành nếu được chữa trị với trụ
sinh và đăng bột, nhưng tên y sĩ trại tù chọn cách dễ là tháo khớp gối. Sau đó
anh còn bị đạn nổ trong khi nhóm lửa rừng sưởi ấm ở trại tận bên Cao Miên,
khiến cả 2 con mắt của anh bị hư nặng tuy vẫn nhìn thấy rất mờ. Vì vậy anh được
thả cho rời trại sớm. Trên đường khổ sở, một mình thất thểu về lại làng phố,
anh bỗng gặp một người đàn bà chưa một lần quen biết, hiện tại là vợ của anh,
đem anh về nhà săn sóc. Chồng trước của bà là một người lính Địa Phương Quân tử
trận 2 năm trước ngày mất nước. Trong vài năm sau đó, đôi mắt anh làm độc kinh
niên nên bác sĩ đành phải múc bỏ cả hai bên.
Biết tính của anh chỉ muốn nhắc đến những giai đoạn quan trọng của trận cuối
và trong thời gian khi còn là tù binh, chị không thắc mắc hỏi thêm, cũng chẳng
cắt ngang cuộc độc thoại của anh bằng một giọng nói trầm tĩnh của chấp nhận số
phận đã an bài, của một cam chịu không lối thoát. Chị có cảm tưởng anh chỉ thổ
lộ lần duy nhất này rồi sẽ không bao giờ nhắc lại, như chôn sâu vĩnh viễn nỗi
oan khiên vào bóng tối đời anh. Đời anh là một nỗi buồn khôn nguôi kết trái sầu
tủi từ thuở anh trở thành kẻ chiến bại và phế nhân. Anh cố tình làm ra vẻ thản
nhiên như không hề muốn chị phải đau đớn, dày vò tự trách số phận quá nghiệt
ngã, cùng khốn, lỡ làng!
“Trách chi người ai lỗi ai
Trách chi người mi ướt cay
Trách chi người thôi đã xa nhau kiếp này…
Mùi thơm khăn áo ngây ngất đi vào cổ tích tôi” (1)
Chị yên lặng ngồi nghe, tiếng được tiếng không, tê tái cõi lòng, nhớ lại năm
xưa có lần anh thì thầm bên chị, “may ra anh bị thương thì chúng mình mới có
thể trở thành vợ chồng.” Thế nhưng tuyệt đối chưa một lần chị nghĩ đến anh có
thể bị thương trong cuối cuộc chiến, và cũng chưa hề nghĩ anh đã phải trải qua
những giai đoạn khổ sở cùng cực như vậy. Từ một nam nhân oai hùng ngày xưa, nay
anh là một phế nhân với những vết thương tàn phá nặng nề trên cơ thể. Đôi mắt
ngày xưa, nơi chị thường hay nhìn vào để tìm hình ảnh của tình yêu và sức sống
của tuổi trẻ mình, nay chỉ là 2 mí mắt nhíp gần nhau nằm sâu trong một khoảng
màu trắng ở giữa. Giờ đây chị mới hiểu vì sao em gái của anh tránh không cho
chị biết nhiều về anh. Chị bỗng cảm thấy gần gũi với vợ của anh, thầm cám ơn rằng
ơn Trên sắp đặt cho anh tìm được ánh sáng dịu hiền giữa đường qua sự săn sóc,
cứu vớt, nuôi nấng, bao bọc, che chở, yêu thương của người vợ này. Như một bà
tiên hiện ra nguyên vẹn để dẫn dắt, cưu mang, nâng đỡ chàng Thiên Thần Mũ Đỏ
của chị trong sa cơ thất thế, khi cánh dù bị chà đạp, tan tác trong cuộc đổi
đời.
Chiều hôm ấy, chị không từ chối khi vợ anh mời chị ở qua đêm tại đây, cả hai
cùng nhau tâm sự dưới một ngọn đèn vàng úa duy nhất của nhà, nhất là sau khi
nghe chị cho biết anh từng là người yêu đầu đời của chị. Càng về khuya, chuyện
trò càng cởi mở hơn, bấy giờ chị mới từ tốn cho vợ chồng anh biết là chị có
thai với anh ngay trong đêm trước khi anh rời Sài Gòn về lại đơn vị cuối tháng
2, 1975. Con gái của anh sinh vào cuối tháng 11, 1975; chị đặt tên cho con là
Kim Ngân, ghép từ nửa tên của chị và nửa tên của anh, nay con gái được 19 tuổi
và đang học đại học gần nhà. Vợ anh liên tục nắm chặt tay chị và kéo chị ngồi
sát vào mình, một cử chỉ che chở, chia xẻ, thông cảm và đầy thân thiện trong
suốt câu chuyện. Anh hoàn toàn im lặng, hai tay ôm đầu mình. Thỉnh thoảng 2 vai
có rung nhẹ. Mãi sau khi chị dứt, anh mới nhẹ nhàng hỏi là con gái có biết câu
chuyện giữa anh và chị, và biết anh là cha không. Con gái anh, chị trả lời, chỉ
biết cha nó là một sĩ quan Nhảy Dù, tử trận và mất xác khi cuộc chiến VN gần
đến hồi kết thúc. Ngay cả mục đích đi tìm anh trong chuyến về VN của chị, chị
cũng hoàn toàn dấu con gái.
Chỉ một điều duy nhất chị không tiết lộ cho anh và vợ anh biết là chị đang
bị ung thư vào giai đoạn cuối.
Tối hôm đó, sau khi đọc kinh cầu nguyện cám ơn, chị có một giấc ngủ thật an
lành dù lạ nhà, một phần có lẽ vì đi đường quá mệt, phần kia vì chị đã đạt được
mục tiêu chính của chuyến đi. Sau bao nhiêu cầu xin, bao nhiêu thấp thỏm đợi
chờ mong mỏi tin tức, nguyện vọng ấp ủ từ bao năm qua nay được đáp ứng và trở
thành sự thật. Trước đây, bao thương nhớ, bao hình ảnh về anh và sự mất anh
trong đời, những suy sụp tinh thần của một người đàn bà di tản mang thai, những
oan trái mòn mỏi trong xót xa; những gian khó thử thách trong đời sống mới,
những gượng cười trong lệ sầu; những năm nuôi dạy con một mình; những cô đơn
tinh thần khi sống bên cạnh người chồng Mỹ với bao dị biệt văn hóa, ngôn từ;
những mệt mỏi thể xác qua bao lần xạ trị, hóa trị, thuốc cũ thuốc mới, những
sợi tóc xanh phai màu rơi rụng; những đau đớn chán nản khi căn bệnh trở nặng;
những lo âu suy tính về tương lai con gái rồi đây sẽ mồ côi mẹ… tất cả đã tạo
cho chị một tình trạng trầm cảm nặng nề. Nhưng giờ đây, chị vô cùng mãn nguyện
tìm thấy anh, nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt, biết anh đã sống sót qua
chiến tranh, dù bị tàn phế trầm trọng nhưng bù lại anh có một người bạn đường
luôn bên cạnh, săn sóc yêu thương anh. Hơn nữa anh còn có đứa con gái và đứa
con trai
Sáng hôm sau, đứa con trai của anh, nhỏ hơn con của chị gần 3 tuổi, ở nhà
ông bà ngoại cạnh trường trung học huyện, về kịp chào chị trước khi chị lên
đường. Chị cũng đã kín đáo trao tặng tất cả số tiền lớn còn lại cho vợ anh đêm
qua. Chị có hứa với vợ chồng anh là chị sẽ kể cho con gái của anh tất cả câu
chuyện giữa anh và chị, không một dấu diếm, luôn cả thương tật của anh và hoàn
cảnh hiện tại của vợ chồng anh. Để trả lời câu hỏi của vợ anh, bằng một giọng
mong manh sâu tận đáy lòng, chị run run xúc động cho biết sẽ trở về lại thăm vợ
chồng anh nếu sức khỏe cho phép. Sau khi chào tạm biệt vợ chồng anh và chúc
nhau an lành, hai người đàn bà ôm xiết chặt nhau, mắt chớm lệ, gần gũi trong
cảm thông trân quý. Anh vẫn đứng yên bên khung cửa trước nhà, chan hòa trong
ánh sáng ấm ban mai. Chị vội bước nhanh đến chiếc xe thồ đang đợi. Xe rồ máy
chở chị đi. Không nhìn lui, bình an trong lòng, chị ngước nhìn trời. Một màu
xanh tuyệt đẹp. Không mây.
*
“Sài Gòn ngày xưa đâu em? Mộng mơ ngày tháng tuổi hoa niên.
Sài Gòn ngày xưa đâu em? Từng con đường phố mình thân quen
Dĩ vãng đâu về, buồn ngẩn ngơ. Bao nhiêu mong đợi lạc bến chờ” (2)
Chị Kim Tiên đã không về lại VN lần thứ hai. Chị chết trong bình an vào giữa
tháng 5, 1994. Cháu Kim Ngân điện thoại cho tôi biết, theo lời yêu cầu của Mẹ,
cháu đang sửa soạn về thăm cha trong mùa hè này, mang theo chiếc xe lăn cũ của
Mẹ cùng một số tiền lớn từ bảo hiểm nhân thọ của mẹ để lại cho cha.
Ước mong cháu Kim Ngân sẽ nuôi nấng và gìn giữ chuyện cổ tích của cha và mẹ
mình.
Vĩnh Chánh
Mission Viejo, CA. Tháng Giêng, 2017
(1) “Đã Một Lần”, nhạc của Y Sĩ Nhảy Dù Phạm Gia Cổn. Lời thơ của Th. Tá TQLC Định Nguyên.
(2) “Sài Gòn Thủa Đó Làm Sao Quên”, nhạc và lời của Y Sĩ Không Quân Lê Khắc Bình.
Bác sĩ Vĩnh Chánh, tốt nghiệp Y Khoa Huế năm 1973, thời chiến tranh, là Y Sĩ Trưởng binh chủng Nhảy Dù cấp tiểu đoàn và gắn bó với đơn vị chiến đấu cho tới giờ phút cuối tại vành đai Sàigon ngày 30 tháng Tư. Bác sĩ Vĩnh Chánh hiện là cư dân Mission Viejo, hội viên hội Ái hữu Y Khoa Huế hải ngoại.