Thuyền nhân, cái danh từ có một âm tượng mà mỗi khi chính
quyền Hà Nội nghe đến nó thì họ nghĩ ngay đến từ đồng ‘đô la’. Thế nhưng cho đến
bao giờ người ta mới biết hết được những bất hạnh xẩy ra cho danh từ đó.
Michelle
Tauriac (Viet Nam Le Dossier Noir Du Communism)
Trước hết, để tránh mọi ngộ nhận, xin nói ngay rằng đây là chuyện
của cá hồi, và chỉ riêng có cá hồi mà thôi. Nói theo tiếng Mỹ là cá hồi only.
Chớ còn cá chim, cá chuồn, cá chép, cá chốt, cá lóc, cá lạt, cá lìm kìm, cá mập,
cá mú, cá măng, cá cơm, cá cam, cá cờ, cá trê, cá trích, cá trẻm, cá heo, cá
hương, cá hố, cá lù đù, cá lìm kìm, cá lia thia, cá đổng, cá đối, cá đèn cầy,
cá bè, cá bẹ, cá bống – bất kể là bống kèo, bống dừa, hay bống đá – hoặc bất
cứ một loại cá thổ tả nào khác đều hoàn toàn (và tuyệt đối) không có dính dáng
gì tới vụ này.
Cá hồi sinh ở sông nhưng sống phần lớn thời gian sống ở biển.
Ðặc điểm của loài cá này là dù có rong chơi phiêu du ở chân trời góc biển nào
chăng nữa, thế nào cũng tìm về nơi chôn nhau cắt rốn để sinh nở. Cá hồi Thái
Bình Dương (Pacific salmon), sau khi từ giã nếp sống hải hồ, sẽ không bao giờ
trở lại biển cả nữa. Lý do giản dị chỉ vì chúng sẽ chết sau khi đẻ và cho thụ
tinh lứa trứng đầu tiên.
Cá hồi Đại Tây Dương (Atlantic salmon) thì khác. Chúng có thể
đi đi về về từ sông ra biển và ngược lại nhiều lần mà không hề do dự hay nao
núng, dù khoảng cách phải vượt qua có thể dài đến hàng ngàn dặm, với vô số khó
khăn và chướng ngại.
Bản năng về nguồn của cá hồi, tất nhiên, đã được loài người
ghi nhận và khai thác từ lâu. Riêng người Nhật, dân tộc đứng thứ nhì về kỹ nghệ
cá hồi, vẫn đều đặn sản xuất ra thị trường mỗi năm cỡ một trăm ba mươi ngàn tấn.
Xét về số lượng, mức sản xuất của người Nhật không hơn người
Nga bao nhiêu và thua xa người Mỹ. Tuy nhiên, cách thức mà dân Nhật bắt cá hồi
mới là điều cần cần phải được lưu tâm và học hỏi.
Họ thiết lập nhà máy đóng hộp cá hồi ngay ở ven sông. Cũng
chính nơi đây cá được nuôi nấng, đẻ trứng, thụ tinh để mỗi cặp sẽ cho từ hai đến
mười ngàn chú cá hồi con ra đời. Sau đó, chúng sẽ được cho phiêu lưu vào đại
dương, để bắt đầu cuộc đời… tha phương cầu thực.
Tùy theo từng loại, cá hồi sẽ sống ở biển từ sáu tháng đến
năm năm. Nhờ vào khả năng “cảm” được từ trường của lòng đất và sự chuyển động của
hải lưu, nó sẽ tìm được về chốn cũ. Khi vào gần đến bờ, giác quan đặc biệt của
loài cá này giúp chúng nhớ được đúng hương vị quê nhà – tức sông xưa bến cũ
– và cứ theo đó mà lần về nguồn cội, đến tận nơi sinh nở.
Người ta đặt sẵn nhiều dụng cụ từ cửa sông để giúp cho cá hồi
dễ dàng và mau chóng vào đến nhà máy. Tại đây, họ sẽ tạo ra một loại chướng ngại
vật giả khiến chúng phải phóng lên cao và khi rơi xuống thì rớt ngay vào một mạng
lưới. Mạng lưới này chuyển động không ngừng, qua nhiều khâu chế biến, để đưa cá
từ sông vào… hộp!
Nói tóm lại là người Nhật thả cá hồi con ra biển, theo kiểu đem
con bỏ chợ, để biển cả nuôi nấng. Rồi khi chúng theo bản năng trở về, họ dụ
cho cá vào nhà máy để đóng hộp và mang bán.
Cách họ kiếm tiền ngó bộ dễ và (chắc) là nhiều. Bởi vậy, có
kẻ bắt chiếc. Nhà Nước CHXHCNVN cũng học theo cách làm ăn không vốn gần như vậy.
Chỉ khác có chút xíu xiu là họ dùng người để kinh doanh, thay cá.
Từ năm 1978 cho đế năm 1990, bằng hình thức này hay hình thức
khác, Việt Cộng đã “thả” ít nhất là hai triệu người dân ra biển. Người ta ước
tính rằng trên bước đường lưu lạc cứ ba con cá hồi rời bến sông ra đi thì ít nhất
cũng có một con bỏ mạng. Nó trở thành mồi săn cho loài người, cho loài chim, hoặc
những loài cá khác. Tương tự, trong số hai triệu người Việt phiêu lưu vào biển
cả – tối thiểu – cũng phải một phần ba đã vong mạng.
Họ chết vì bão tố, vì hải tặc, hay vì bị xô đuổi một cách lạnh
lùng tàn nhẫn tại bến bờ của những quốc gia lân cận. Nơi đây thuyền bè của họ
thường bị lôi kéo trở ngược ra khơi. Họ sẽ lênh đênh giữa trời nước bao la cho
đến chết vì không còn tìm được nơi để đến, và cũng không còn đủ lương thực
(cũng như nhiên liệu) để tiếp tục đi.
Những kẻ may mắn thoát nạn đều sẽ biến thành cá hồi (theo
tinh thần của Nghị quyết 36) của nhà đương cuộc Hà Nội. Đám dân trôi sông lạc
chợ này sẽ bị tận tình khai thác, và khai thác dài dài, cho đến khi tắt thở,
bằng nhiều cách.
Nếu cá hồi Thái Bình Dương chỉ hồi hương một lần rồi chết
thì những thuyền nhân rời khỏi Việt Nam sau ngày 19 tháng 6 năm 1988 – đã có thời
gian dài sống tạm trú ở những quốc gia Ðông Nam Á – cũng mang số phận y như vậy.
Họ bị cưỡng bách hồi hương và không bao giờ còn có dịp ra đi nữa. Riêng với những
thuyền nhân ở Hồng Kông (khi phần đất này còn thuộc Anh) Anh Quốc đã thoả thuận
trả sáu trăm hai chục Mỹ kim mỗi đầu nguời để Hà Nội chịu nhận họ trở về, cùng
với lời hứa hẹn là họ sẽ không bị hành hạ hay ngược đãi!
Số người Việt may mắn hơn, hiện đang phiêu bạt tứ tán khắp bốn
phương trời, có thể được coi như là cá hồi Ðại Tây Dương – giống cá có khả năng
đi đi về về nhiều lần từ sông ra biển và ngược lại. Những kẻ này vẫn tiếp tục
kiếp sống tha phương cầu thực, chăm chỉ cặm cụi kiếm và để dành tiền, rồi hàng
năm làm đơn “xin phép” được hồi hương. Mỗi Việt kiều về thăm quê nhà chắc chắn
đều chi trải một số tiền không phải chỉ là sáu trăm Mỹ kim mà có thể là đến sáu
ngàn đô la, hay nhiều hơn nữa.
VOV
vừa hớn hở loan tin: “Kiều hối về Việt Nam năm 2019 ước đạt 16,7 tỉ USD,
tăng 800 triệu USD so với năm 2018.”
Hà Nội có lý do để hãnh diện về thành quả này – thành quả
kinh tế duy nhất (thực sự) vượt chỉ tiêu – về kỹ nghệ xuất và nhập cảng
người, sau hơn nửa thế kỷ mà họ đã nắm được quyền bính ở Việt Nam. Họ đẩy ra khỏi
nước những con nguời cùng quẫn và sôi sục bất mãn, rồi “thu về” những Việt kiều
yêu nuớc và giàu sang. Thiệt khoẻ!
Tưởng Năng Tiến