Nhà văn Phạm Tín An Ninh và một trong những tác phẩm của ông
Sau chiến tranh, tuy bị bức tử, nhưng Văn học miền Nam vẫn hồi sinh,
phát triển, để bước sang một trang sử mới. Văn học Hải ngoại, một
hình thức, hay tên gọi văn chương tị nạn, là sự nối dài của nền Văn
học ấy. Và từ đó, ngoài các nhà văn tên tuổi, ta thấy, xuất hiện
một loạt các cây viết mới. Họ xuất thân từ những người lính, tù
nhân, thuyền nhân tị nạn, như: Cao Xuân Huy, Song Vũ, hay Phạm Tín An
Ninh… Chiến tranh, con đường giải oan cho cuộc bể dâu ấy, là đề tài
đã được các nhà văn đào sâu, tìm kiếm làm sáng tỏ một cách chân
thực, sinh động. Và khi đi sâu vào nghiên cứu, ta có thể thấy, Phạm
Tín An Ninh là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất viết về đề tài
này.
Nếu bút ký Phan Nhật Nam sắc nhọn, hừng hực khói lửa, thì vẫn nơi
chiến trường ấy, ngòi bút, lời văn Phạm Tín An Ninh nhẹ nhàng, sâu
lắng và trong sáng. Có thể nói, ngoài sự tài hoa, với bút pháp
hiện thực, Phạm Tín An Ninh còn là một nhà văn đức độ, có sự cảm
thông và tình yêu sâu sắc đối với tha nhân. Văn thơ Phạm Tín An Ninh như
một luồng gió mới thổi vào hồn không chỉ những người lính đồng
đội, bạn bè ông, mà còn cho cả những người lính một thời ở bên kia
của chiến tuyến.
Phải nói, ông là một trong những nhà văn mà tôi đã học được nhiều
điều, khi đọc. Bút pháp, và tư tưởng ấy, Phạm Tín An Ninh đã gieo
vào nhiều thế người hệ đọc, từ hải ngoại về đến quốc nội, dù cho
đến nay, ông mới cho in ấn, phát hành 4 tác phẩm: Ở Cuối Hai Con Đường,
Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân, Vẫn Còn Vương Tơ, và Sau Cuộc Bể Dâu. Bốn
tập truyện ngắn, bút ký này, tôi đã đọc nhiều lần. Có thể nói,
truyện nào của Phạm Tín An Ninh cũng sâu sắc, và cảm động. Kể cả
truyện viết đầu tay. Một đặc điểm nổi bật nhất trong văn thơ Phạm
Tín An Ninh ta có thể nhận thấy, không chỉ trong tư tưởng, bút pháp,
mà lối hành văn, câu cú, chính tả cũng sáng, đẹp và chuẩn mực.
Dường như, cho đến nay, không có nhiều nhà văn, trang sách hội đủ
những đặc điểm này.
Nhà văn Phạm Tín An Ninh sinh năm 1943 tại Khánh Hòa. Thi đậu tú
tài, ông nhập ngũ, khóa 18 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Mười một năm
lính chiến, để rồi sau tháng 4-1975, Phạm Tín An Ninh bị cải tạo, tù
đày từ Nam ra đến Bắc. Năm 1984 ra tù, ông vượt biển, xin tị nạn ở Na
Uy. Hiện ông sống và viết văn tại Cali, Hoa Kỳ.
Chiến tranh với cái nhìn chân thực của người lính.
Có thể nói, sau mười một năm cầm súng, và gần chục năm cải tạo
tù đày, cùng những tháng ngày trốn chạy, tị nạn nơi đất khách, quê
người, Phạm Tín An Ninh có đủ độ lùi thời gian để nhìn lại cuộc
chiến đã qua, một cách sâu sắc và trung thực nhất. Và chỉ có cầm
bút người lính Phạm Tín An Ninh mới có thể tìm lại linh hồn đồng
đội và chính mình. Sự trả tính chất cuộc chiến về đúng vị trí,
tên gọi của nó, như một món nợ đối với người lính, tù nhân, tị nạn
còn sống sót vậy. Do đó, về mặt tâm lý, Phạm Tín An Ninh hoàn toàn
không có sự chuẩn bị để trở thành nhà văn. Tuy nhiên, chính những
điều không tưởng này, cho Phạm Tín An Ninh một tâm lý thoải mái, tự
nhiên khi viết, và sáng tạo. Từ những đặc tính riêng biệt ấy, (hiển
nhiên) làm nên tên tuổi nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Cũng như Song Vũ, nhà văn Phạm Tín An Ninh đi lên từ một sĩ quan
trẻ chỉ huy cấp trung đội. Mười một năm dài đằng đẵng lăn lộn khắp
các chiến trường miền Trung, Cao Nguyên và ông trở thành một vị chỉ
huy dày dạn kinh nghiệm chiến trường. Những ngày tháng gian khổ, bi
thương ấy, như nhát dao đâm nát hồn người. Bởi, hằng ngày, hằng giờ
ông phải chứng kiến cái chết, không chỉ của những người lính (trẻ
cùng một dòng máu) ở bên kia chiến tuyến, mà còn phải vuốt mắt cho
đồng đội, người thân của mình. Nỗi ám ảnh ấy, thường trực đeo bám
ông. Và chỉ khi ngồi đối diện với ngòi bút và trang sách, thì dường
như gánh nặng tâm hồn ông mới trút bỏ. Do vậy, ta có thể thấy, tính
hiện thực xuyên suốt những tác phẩm của Phạm Tín An Ninh.
Rời quân trường, Phạm Tín An Ninh ra đơn vị tác chiến, phải thế
chỗ cho một trung đội trưởng vừa tử trận. Hiện thực ấy, tác động
đến tâm lý, làm cho người sĩ quan trẻ không khỏi bùi ngùi giao động.
Những Mùa Mưa Trong Ký Ức, tuy không phải là bút ký hay của Phạm Tín
An Ninh, song đã nói lên phần nào cái không khí, cục diện mới của
chiến tranh, cũng như tâm trạng chung của người lính lúc đó:
“Nghi thức ra mắt vừa xong, tất cả tháp tùng ông tiểu đoàn trưởng đến
Quân Y Viện Nguyễn Huệ để dự tang lễ của một ông thượng sĩ vừa qua đời do bị
trọng thương trong cuộc hành quân tại Lâm Đồng tuần trước. Tôi bất ngờ và có
cảm giác xốn xang khi biết ông thượng sĩ này là Trung đội trưởng Trung Đội 3/3
mà tôi là người đến thay thế ông… Ngày đầu ra nhận đơn vị lại là ngày phải tiễn
đưa người tiền nhiệm mà mình chưa hề biết mặt ra nghĩa trang, nên ít nhiều nghĩ
tới phần số của mình trong nay mai và sớm bị ám ảnh bởi tiếng khóc than của
người góa phụ.”
Nếu ta đã đọc bút ký, truyện ngắn nơi chiến trường của những:
Phan Nhật Nam, Cao Xuân Huy, hay Song Vũ… thì thấy được trước cái chết,
sự hy sinh tình đồng chí, đồng đội, mới dừng lại ở sự miêu tả cái
khoắc khoải, tàn khốc, đớn đau. Song đến Phạm Tín An Ninh đã có sự
liên tưởng. Với phương thức liên tưởng này, cùng những ca khúc trữ
tình, lãng mạn ấy, làm cho hình ảnh người lính dường như đi vào bất
tử, và cái chết của họ nhẹ nhàng, dịu bớt nỗi đau trong lòng người
đọc chăng? Vẫn trích đoạn trong bút ký, Những Mùa Mưa Trong Ký Ức
dưới đây, không chỉ chứng minh cho điều đó, mà còn cho ta thấy, nỗi
đau và tình đồng đội của người lính:
“Người tôi ướt đẫm máu, nước mưa, và cả nước mắt (cho người đồng đội
thương binh không có chút hy vọng sống còn)… Khuya hôm ấy, anh lính bị trọng
thương của tôi, vốn là một tân binh quân dịch, quê tận Gò Công, đã trút hơi thở
cuối cùng trên tay tôi, sau khi giao cho tôi cái bóp có hai tháng tiền lương và
thì thào lời trối trăng đứt đoạn, nhờ chuyển lại cho vợ và đứa con gái đầu lòng
chưa đầy một tuổi, mà anh chỉ mới về phép thăm cháu một lần. Đó là người lính
đầu tiên dưới quyền đã chết, trên tay tôi. Anh có cái tên rất dân dã mà tôi
không bao giờ quên được: Nguyễn văn Tý, trùng tên người nhạc sĩ sáng tác bài Dư
Âm mà tôi thường hay hát. Và sau này, cứ mỗi lần nghe bản nhạc này, tôi lại nhớ
đến anh…”
Có thể nói, Chuyện Người Lính Trinh Sát là một trong những truyện ký
hay nhất của Phạm Tín An Ninh. Đọc nó, tôi cứ bị ám ảnh mãi, bởi câu
kết: “Trong cuộc chiến này, quả thật, có những điều mà người ta không thể
nào hiểu được.” Dường như, đó là câu hỏi, một vấn đề buộc nhà văn,
người lính Phạm Tín An Ninh phải đi tìm. Có lẽ, không một ai hiểu
được tâm trạng của một người vợ có chồng theo Cộng sản, bị lính Việt Nam Cộng
Hòa bắn chết, và người con trai duy nhất đi lính VNCH lại bị bộ đội giết? Sự
đau đớn ấy, không thể làm một phép tính so sánh, song cái giằng xé, đau đớn,
âm thầm của bà nhân lên gấp bội, bởi không người xẻ chia, cảm thông. Thật vậy,
thông qua bà, nhà văn Phạm Tín An Ninh đã cho ta thấy rõ, hình ảnh thu
nhỏ của cuộc chiến hai mươi năm, anh em tương tàn này. Tuy nhiên, hơi bị
tiếc, bởi tác giả dường như, chưa khai thác hết mâu thuẫn nội tâm của người
vợ, người mẹ đau khổ này. Nếu tác giả khoét sâu vào khía cạnh này, tôi tin
rằng, truyện hay lên gấp nhiều lần, và câu chuyện không dừng lại chỉ một
người lính trinh sát can trường. Có thể, tác giả phải đặt lại tên “Chuyện
Về Mẹ” thay cho truyện “Chuyện Người Lính Trinh Sát” không chừng.
Vâng! Và cuộc chiến hai mươi năm được đặt lên đôi vai gầy của mẹ. Có cái
đau nào bằng nỗi đau nhìn chồng chết mà không dám nhận, không dám khóc, không
dám vấn khăn tang? Và có những nỗi đau chồng lên nỗi đau, khi bà mẹ nhìn con
trẻ chết tan xác, bởi hỏa tiễn đồng đội của chồng, khi nỗi đau mất chồng chưa
kịp nguôi ngoai? Đọc xong Chuyện Người Lính Trinh Sát, tôi cứ phân vân tự hỏi:
Nếu có ghi tên vào Trang sử của chiến tranh, người vợ, người mẹ này
thuộc về những người lính chiến VNCH, hay là của những anh Bộ đội? Và có phải
đó là nỗi đau chung, nỗi đau khó xóa nhòa? Ta hãy đọc lại những lời
thoại, với sự cảm thông, chia sẻ giữa người lính VNCH và người đàn
bà trong Chuyện Người Lính Trinh Sát dưới đây, để thấy rõ cái trớ trêu,
cũng như bản chất của cuộc chiến, và nỗi đau tận cùng của con
người, hay của cả một dân tộc này:
“Chờ cho người mẹ thắp hương và bớt xúc động, tôi hỏi nhỏ:
– Ở làng Long Giang, chị có biết bà Lê Thị Đúng, có người con chỉ huy
du kích, bị chết cách nay khoảng tám năm?
Người mẹ ngạc nhiên nhìn tôi, thoáng dò xét rồi cúi xuống, nói thật nhỏ
chỉ đủ tôi nghe:
– Bà là mẹ chồng tôi, và con tôi đây là đích tôn, cháu nội duy
nhất của bà. Vừa nói chị vừa đưa tay chỉ vào nấm mồ mới toanh trước mặt.
Khi về lại đơn vị, tôi xin Ban Tài Chánh ứng trước nửa tháng lương.
Trích ra một phần, bỏ vào bì thơ, tôi tìm đến đại đội trinh sát gặp và biếu cho
bà mẹ của người lính trẻ vừa mới lẫm liệt hy sinh. Bà thoáng một chút xúc động
ngạc nhiên nhìn tôi, nói lời cám ơn…Chia tay bà, trên đường trở về Bộ Chỉ Huy
Chiến Đoàn, tôi suy nghĩ mông lung. Trong cuộc chiến này, quả thật, có những
điều mà người ta không thể nào hiểu được.”
Tôi không nghĩ, ngòi bút của nhà văn Phạm Tín An Ninh đại diện
chung cho người lính VNCH. Nhưng tư tưởng, sự cảm thông mang tính nhân
văn có được trên những trang sách, bởi ông đã nhận ra bản chất của
cuộc chiến này. Thật vậy, đọc Người Góa Phụ Giờ Thứ 25, ta có thể
thấy, ngoài sự dũng cảm với những cái chết tang thương của người
lính, cùng sự cảm thông, kính phục, nhà văn Phạm Tín An Ninh còn chỉ
ra, bàn cờ chính trị bẩn thỉu đã quyết định số phận người lính ở
nơi chiến trường. Tôi đã đọc nhiều bút ký, hồi ký của những nhà văn
từ cả hai phía viết cuộc chiến này, song phải nói, rất ít gặp được
những nhận định rạch ròi, mang tư tưởng sâu sắc như Phạm Tín An Ninh:
“Sau khi Mỹ bất chấp những phản đối của VNCH, đã tự cho mình ngồi ngang
hàng với Cộng Sản Bắc Việt và đơn phương nhượng bộ quá nhiều điều trong Hiệp
Định Paris ký kết ngày 27.1.1973, chứng tỏ ý định sớm bỏ rơi đồng minh, phủi
tay cuộc chiến. Lợi dụng điều này, Cộng quân đã ồ ạt tung nhiều sư đoàn
với lực lượng chiến xa, từ miền Bắc và Lào, theo đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập
Nam Việt Nam, đồng loạt mở các cuộc tấn công qui mô vào các đơn vị phòng thủ
của ta. Phước Long là tỉnh đầu tiên bị thất thủ vào ngày 6 tháng
1/1975 nhưng không có bất cứ dấu hiệu nào từ phía Hoa Kỳ can thiệp hay
phản đối CSBV vi phạm hiệp định. Điều này đã báo hiệu cho số phận của VNCH.”
(Người góa phụ giờ thứ 25)
Có thể nói, đọc Phạm Tín An Ninh mở ra cho tôi nhiều kiến thức,
cái nhìn (đa chiều) về cuộc chiến tàn khốc nhất của dân tộc mà ông,
thế hệ ông đã đi qua. Tôi nghĩ, với lăng kính, cái nhìn khách quan như
vậy, trang viết của ông không chỉ giá trị về mặt văn học, mà còn có
giá trị về lịch sử. Đây là một trong những yếu tố quan trọng làm
nên chân dung nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Tính nhân bản, lòng vị tha vượt lên trên ngục tối tù đày.
Đi sâu vào đọc và nghiên cứu, ta có thể thấy, truyện của Phạm Tín
An Ninh luôn mang tính điện ảnh, kịch tính với mâu thuẫn, tình tiết
éo le được đẩy lên cao độ, và bất ngờ. Tuy thắt nút được mở, cái
kết vỡ òa có hậu, song làm cho người đọc không khỏi bùi ngùi, xót
xa. Đà Lạt Trời Mưa là một truyện hay, tiêu biểu cho đặc tính này
trong truyện ký, văn xuôi của ông. Thật vậy! Chiến tranh kết thúc, nhà
tù, cải tạo là nơi người lính thất trận phải đi đến. Ở địa ngục
trần gian này, cái chết chưa phải là điều đáng sợ nhất đối với
người lính cải tạo tù đày, mà cực nhọc, đói khát, đày đọa về vật
chất, giam hãm tinh thần mới là nỗi ám ảnh thường trực, kể cả khi
họ đã thoát ra khỏi nơi địa ngục ấy. Ta hãy đọc lại trích đoạn
trong Đà Lạt Trời Mưa dưới đây, để thấy rõ, cái chết rẻ mạt và bất
ngờ của họ, dẫn đến những bi kịch của con người ở một xã hội luật
pháp, đạo lý đảo lộn tùng phèo này:
“Họ bắt chúng tôi phải tìm những cây gỗ lớn và thẳng. Có những thân cây
lớn đến hai vòng tay ôm không hết. Trời mùa đông với những cơn mưa phùn không
dứt, nên những con đường mòn trơn như mỡ…Ăn uống quá thiếu thốn, đám tù chúng
tôi triền miên trong cơn đói. Sức ngày càng yếu mà phải lao động quá nặng nhọc…
Thống mệt quá nên lảo đảo rồi ngã sấp trên thân cây, đúng lúc cây này lăn xuống
suối, bật luôn theo Thống. Chúng tôi chỉ còn nghe tiếng hét của Thống trước khi
anh bị văng xuống lòng suối nằm sâu dưới vực.”
Tuy viết về chiến tranh, người lính, và cải tạo tù đày, song chất
trữ tình là nghệ thuật đặc trưng nhất xuyên suốt truyện ngắn, văn
xuôi của Phạm Tín An Ninh. Do vậy, đọc ông luôn cho ta cảm giác nhẹ
nhàng, sâu lắng ăm ắp tình người. Ta có thể thấy, cùng với, Thằng
Bé Đánh Giày Người Nghĩa Lộ, Ở Cuối Hai Con Đường là truyện ngắn
hay nhất về tình người, lòng nhân đạo cao cả, sâu sắc của Phạm Tín
An Ninh. Nếu ở Thằng Bé Đánh Giày, Người Nghĩa Lộ, sự cảm thông của
người mẹ, người dân miền Bắc đối với những người lính cải tạo tù
đày, thì Ở Cuối Hai Con Đường, thì cái tình người ấy, thể hiện ngay
trong tình cảm, hành động của người quản giáo (một cựu tù binh ở
chiến trường Kontum, đã được những người lính VNCH đối xử nhân đạo).
Có thể nói, tôi đã đọc rất nhiều bút ký, hồi ký của những cựu
cải tạo, tù nhân từ Nam ra đến Bắc, song có rất ít nhà văn, người
viết tìm ra khía cạnh này. Tôi nghĩ, đây là cái nhìn công bình, không
mang tính định kiến, hận thù của một nhà văn có tình yêu và lòng
vị tha cao cả. Cho nên, trong một lần điện đàm, bàn luận về nhà văn
Phạm Tín An Ninh, nhà thơ Trần Trung Đạo cho rằng: Phạm Tín An Ninh chinh
phục được độc giả như vậy, vì khi viết anh có cái tâm trong sáng.
Thật vậy, đoạn văn miêu tả tình cảm, tình người dưới đây, sẽ
chứng minh cho chúng ta điều đó:
“Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa.
Anh bảo nhỏ anh đội trưởng:
– Tôi để một giỏ cá đằng sau lán. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia
cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín,
đừng để trên biết.
Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng
ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động.
Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi
sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn
sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách
đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên. Rồi đào mấy cái bếp “Hoàng Cầm” để luộc
sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng
nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luộc sắn ăn cho no. Anh đích thân
ở lại đứng gác. Nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh “chuẩn bị đi về”, anh em tức khắc
giấu hết “tang vật” xuống một cái hố đã đào sẵn.” (Ở Cuối Hai Con
Đường)
Nghỉ Hè Ở Mallorca là một truyện ký, tôi cho rằng, hay, và toàn
bích nhất của Phạm Tín An Ninh. Cùng với Ra Biển Gọi Thầm của Trần Hoài
Thư, Nghỉ Hè Ở Mallorca là truyện độc đáo nhất về tình yêu ở nơi cải
tạo tù đày. Tính chất trữ tình tựa như cơn mưa đầu làm dịu mát cái
nắng nóng hừng hực giữa hè của văn chương về chiến tranh, tù đày sau
1975, ở hải ngoại vậy. Vâng! Vẫn thủ pháp nghệ thuật hồi tưởng,
chập chờn ký ức của nhân vật lồng vào tác giả, Phạm Tín An Ninh đã
đưa người đọc trở về với những ngày tù tội, nơi có mối tình cao
thượng tuyệt đẹp, giữa một nữ kỹ sư lâm trường và người tù cải
tạo. Tình yêu, và sự cao thượng trong hoàn cảnh ấy, tuy nghiệt ngã,
song nó đã mở ra một lối thoát, một nghị lực sống của con người:
“Tội nghiệp, em yêu anh Đôn trong một hoàn cảnh quá nghiệt ngã. Điều duy
nhất mà em có thể làm được cho người yêu của mình là giúp anh trốn trại, vượt
ra khỏi khung cảnh đày ải man rợ, để anh ấy luôn được xứng đáng với những điều
anh đang có. Bởi vì chính những điều ấy đã làm cho trái tim em rung động, để em
biết thế nào là một tình yêu, mà nếu không gặp anh ấy, có lẽ suốt cả đời em
không có được. Quan trọng hơn, đó lại là thứ vũ khí tốt nhất, hiệu quả nhất
giúp em đủ can đảm và nghị lực để chống lại số phận, mà trước đó em nghĩ là tới
một ngày em sẽ phải đầu hàng, buông xuôi, bất lực.” (Nghỉ Hè Ở Mallorca)
Dường như, càng bị đọa đày, thì Phạm Tín An Ninh càng tĩnh tâm hơn.
Nhất là khi ông bước vào nghiệp viết. Lòng nhân bản, tình người giúp
ông bước ra khỏi hận thù. Cho nên, mỗi trang viết của ông như một liều
thuốc, lời ru làm xoa dịu nỗi đau của con người vậy.
Quê hương với nỗi đau và mất mát.
Bước ra khỏi nhà tù nhỏ, nhưng con đường trước mặt Phạm Tín An Ninh
còn bế tắc hơn nữa. Nỗi đau của đất nước, và gia đình như đám mây
đen bao kín cả bầu trời. Và đi hết biển, con đường duy nhất, là nơi
ông phải đến. Tâm trạng ấy, được Phạm Tín An Ninh ủ vào bài viết, mà
tôi không thể gọi thành tên. Bởi, ông trộn tất cả các thể loại văn
học vào trong đó. Vâng! Những Đám Mây Trên Đỉnh Núi Phổ Đà là bài
viết như vậy. Có thể nói, đây là một trong những bài văn cảm động
nhất của Phạm Tín An Ninh. Vẫn lối viết giản dị, lời văn mộc mạc,
nhưng giàu hình tượng làm cho người đọc phải rưng rưng ngấn lệ. Những
hình tượng so sánh ấy, trải ra, rồi cuộn tròn thành nỗi đau, nỗi u
hoài trong lòng tác giả, trong lòng người đọc. Thành thử, tôi không
thể lược bỏ bất cứ từ ngữ, câu cú nào trong đoạn trích dưới đây,
dù có thể khá dài:
“Chỉ có dãy núi Phổ Đà vẫn còn đứng nguyên ở đó. Hôm đầu tiên ra cổng
nhìn lên, tôi không còn thấy cánh đại bàng hùng vĩ ngày xưa. Cả đỉnh núi bị bao
phủ bởi những đám mây đen buồn thảm, làm tối cả một vùng trời ảm đạm. Tôi hình
dung đến cha mẹ tôi, hai ông chú và cả những đồng đội bạn bè, trong đó có Phan.
Tất cả như đang ẩn hiện trong các đám mây mù buồn thảm ấy. Lòng tôi đau đớn như
đang có trăm ngàn vết chém. Tôi thắp hương, nhắm mắt tưởng nhớ và cầu nguyện
cho tất cả được siêu thoát trong một thế giới bình an, không còn có đau khổ,
hận thù. Nghe tiếng sấm chớp, tôi giật mình mở mắt ra. Trời đang vần vũ một cơn
mưa. Nhìn mưa trút nước từ những đám mây đen trên đỉnh núi Phổ Đà, tôi có cảm
giác như suối nước mắt của bao nhiêu người thân bất hạnh. Mưa dứt. Những đám
mây đen biến mất. Tôi cũng vừa nhìn thấy cánh chim đại bàng trên vách núi vỗ
cánh bay đi. Mất hút cuối chân trời.”
Và Phạm Tín An Ninh đã đi gần hết biển. Xứ lạnh Na Uy là nơi ông
cập bến đỗ. Cuộc sống yên bình, hạnh phúc nơi đây càng làm cho ông
day dứt khôn nguôi. Với đồng đội, với quê hương, một món nợ, buộc ông
phải trả. Như một cánh chim biệt xứ, ông biết về đâu, khi thành phố
xưa đã thực sự không còn, và những dấu tích, kỷ niệm xưa chỉ còn
là cổ tích. Một nỗi đau, không thể giãi bày. Hoàn cảnh ấy, chỉ có
trang viết mới làm ông nguôi ngoai nỗi nhớ thương. Và khi viết Chim Bay
Về Biển, dường như Phạm Tín An Ninh đã vắt hết nỗi đau, và niềm nhớ
thương nơi quê nhà vào trong đó. Thật vậy, Chim Bay Về Biển là những
trang văn đẹp nhất, và cũng buồn nhất, mà tôi đã được đọc trong thời
gian gần đây. Ta hãy đọc lại một trích đoạn trích dưới đây, để thấy
rõ điều đó:
“Bỗng lòng tôi chợt thoáng lên một chút băn khoăn. Những cánh chim di xứ
ấy sẽ bay trở về đâu, khi Nha Trang ngày xưa của họ đã thực sự không còn. Thành
phố đã cho họ một thời tuổi thơ đẹp đẽ hoa mộng, nhưng cũng đã để lại trong
lòng họ quá nhiều đớn đau, mất mát sau cuộc đổi đời. Những hang động tuổi
thơ và dấu tích của những cuộc tình ngày xưa, tất cả giờ chỉ còn là cổ tích.
Tôi nhớ lời thằng bạn còn ở lại Nha Trang, nhớ tới thầy tôi, nhà văn Cung Giũ
Nguyên và tác phẩm Le Domaine Maudit viết từ năm 1961, như là một tiên tri của
Thầy.”
Có lẽ, thời gian đẹp, nhiều kỷ niệm nhất của Phạm Tín An Ninh là lúc mặc áo
lính, nên truyện của ông chủ yếu viết về lính, viết về chiến tranh. Có điều đặc
biệt, trên trang sách của ông, tôi ngửi thấy mùi khét của bom, nghe thấy tiếng
súng, nhưng tôi không thấy có địch, có ta, không có hận thù và những cảnh khát
máu giết người, mà chỉ thấy ngun ngút tình người trong đó. Và ước nguyện
của Phạm Tín An Ninh, dường như cũng là ước nguyện chung cho tất cả
những người lính đã đi qua cuộc bể dâu này. Chính vì vậy, tôi xin
mượn một đoạn văn trong truyện ký: Tháng 4 Nhớ Bạn (của ông) nhằm
làm sáng tỏ thêm chân dung nhà văn Phạm Tín An Ninh, cũng như để kết
thúc bài viết này:
“Lịch sử dân tộc nhất định sẽ có ngày viết lại những chiến công vinh
quang hiển hách, và cả những hy sinh, đau đớn, khổ nhục mà thế hệ chúng tôi đã
từng đạt được, trải qua, trong một giai đoạn bất hạnh và đau thương nhất của
dân tộc.”
Leipzig ngày 27-12-2019
Đỗ Trường