Vừa rời nhà thì trời lấm tấm mưa, đường trơn và tối nên tôi lái
xe rất chậm – dù thuở ấy tuổi đời còn trẻ. Phải qua đêm nay, đêm giao
thừa, tôi mới bước qua tuổi ba mươi – nếu tính theo âm lịch. Tam
thập nhi lập nhưng tôi đang hơi lập cập vì vừa bắt đầu một cuộc
đời mới, đời tị nạn.
Nghề ngỗng không, tiền bạc không, vốn liếng tiếng Anh cũng không
được nhiều nhặn gì cho lắm. Chỉ có điều may mắn là tôi không đến
nỗi thất nghiệp thôi. Việc làm tuy chỉ với đồng lương tối thiểu nhưng
được cái rất nhẹ nhàng và dễ dàng như chơi vậy. Tôi có thể đi học
ban ngày. Mãi đến 10 giờ tối mới phải có mặt ở trạm săng, để thay
thế cho người làm việc ca chiều, rồi loanh quanh ở đó cho đến sáng
sớm hôm sau.
Tháng Giêng, tháng Hai ở California trời thường mưa nên khách hàng rất
lưa thưa, thỉnh thoảng mới có người dừng xe, và càng về khuya càng
vắng. Tôi gần như chả phải làm gì cả nên đóng kín cửa, mở máy sưởi
tay, kê lọ thức ăn làm sẵn đựng trong lọ thủy tinh sát ngay bên cạnh,
rồi ngồi học bài hay đọc báo. Sau một lúc lâu, khi đã hơi đoi đói,
tôi sẽ có một bữa ăn nóng sốt ngon lành.
Giữa một đêm Đông mưa lạnh mà được ở trong phòng kín, có máy sưởi
ấm áp, với một lọ cơm đầy đang bốc khói (thịt cá gia vị tiêu ớt
đầy đủ) thì không còn gì để phàn nàn nữa cả. Tôi sắp thưởng thức
bữa ăn khuya thì khách lạ xuất hiện, một người đàn ông trung niên,
trông có vẻ là dân Mễ Tây Cơ. Ông đứng trước khung cửa kính nhìn vào
– ướt như chuột lột, áo quần nhầu nhĩ, dáng điệu thiểu não – với
ánh mắt lo âu. Một người vô gia cư, cần đi tiêu đi tiểu gì đó, tôi
đoán vậy.
Restroom của trạm săng chỉ dành cho khách hàng. Để cho dân homeless
xử dụng tự do thì họ cứ đến hoài, đám nhân viên tụi tôi sẽ phải lau
chùi và dọn dẹp muốn khùng luôn.
Tuy biết thế nhưng tôi vẫn bước ra bên ngoài, đưa ra chìa khoá nhà
vệ sinh như thường lệ. Ổng không cầm, chừng như không hiểu tại sao, cho
đến khi tôi chỉ tay vào cánh cửa có hai chữ WC thì người khách lạ
mới gật đầu, vội vã đi vội vào bên trong.
Vài phút sau y trở ra (chắc đã bỏ quên chìa khoá bên trong) đứng ở
chỗ cũ, vai run run vì lạnh, ngơ ngác nhìn quanh. Cái gì chứ đói
lạnh thì tôi “rành” lắm nên không khỏi chạnh lòng. Người khách lạ
khiến tôi nhớ đến những ngày tháng không nhà của chính mình –
sau một chuyến vượt biên thất bại, và lạc mất hết giấy tờ cùng
tiền bạc – ở một thành phố không một người quen.
Vào mùa mưa, Rạch Giá hay có những ngày biển động. Trời thấp, ẩm, lạnh,
mây xám màu chì. Lòng buồn, bụng đói, dạ hoang mang, tôi bước đi không thấy
phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ . Sáng nào tôi cũng
loanh quanh trong chợ Nhà Lồng của thị xã, mắt láo liên nhìn quanh những bàn
ăn, chỉ chờ thực khách buông đũa là nhào vào húp vội phần ăn thừa còn lại. Tôi
trải qua nhiều tháng ngày như thế (ngay giữa lòng quê hương của chính
mình) nhưng chưa bao giờ nhận được một nụ cười thân thiện, hay một cử
chỉ thân ái, của bất cứ ai.
Tôi mở cửa mời người người khách lạ bước vào bên trong, rồi xẻ
phần cơm sắp ăn vào một cái đĩa giấy – cắm thêm vào cái nĩa nhựa –
ra dấu mời bằng một nụ cười hơi vụng về. Không khách sáo hay ngượng
ngùng gì ráo, y vội vã làm dấu rồi cắm cúi ăn ngay.
Để cho không khí đỡ ngượng nghịu, tôi chỉ vào ngực mình tự giới
thiệu:
– My name is Tien, my name is Tien…
Ổng ta hiểu nên cũng chỉ chỉ vào ngực, đáp lại ngay dù đang nhai
ngồm ngoàm:
– Domingo, Domingo …
Chúng tôi vui vẻ bắt tay nhau. Nụ cười hiền lành của người khách
lạ khiến tôi yên tâm và cảm thấy dễ
chịu:
– You speak English?
– No!
– No English?
– No!
Xong, tôi lấy một lon cà phê và một bao thuốc lá, hàng bán của
trạm săng, ngỏ ý “thân tặng” trước khi từ giã. Domingo đón nhận, gật
đầu cảm ơn, rồi miễn cưỡng mở cửa lầm lũi bỏ đi. Tôi nhìn theo, áy
náy và ái ngại nhưng còn biết làm gì hơn và làm sao khác!
Chỉ độ vài ba phút sau thì Domingo quay lại, nhè nhẹ gõ vào khung
kính. Tôi chưa biết nói sao thì y móc túi chìa ra một manh giấy nhỏ,
với vài dòng chữ mực xanh nghuệch ngoạc và nhoè nhẹt. Tôi đọc chữ
được, chữ mất nhưng vẫn đoán được nội dung vì giản dị đây chỉ là
một cái địa chỉ của một tiệm bánh nhưng không rõ số nhà (King Bakery
… King Road … San Jose) và số điện thoại.
Nơi tôi làm việc cách trạm xe buýt Greyhound không xa lắm, chỉ chừng
một giờ đi bộ. Có lẽ Domingo là di dân lậu. Y băng qua biên giới vào được
San Diego, một thành phố cực Nam của Mỹ giáp ranh với Mexico. Từ đây
chắc có người giúp y mua vé xe buýt lên San Jose để tìm người thân.
Đến một một nơi xa lạ, giữa đêm mưa, đi loanh quanh mãi rồi không biết
đi đâu nữa nên y chọn trạm săng của tôi là chỗ dừng chân.
Chúng tôi bất đồng ngôn ngữ nên mọi suy đoán của tôi vô phương kiểm
chứng. Tần ngần một lát, tôi lấy cuốn niên giám điện thoại trang
vàng – Yellow Pages San Jose – lật kiếm vần B coi thử:
Bingo!
Chắc phải có đến mấy trăm tiệm bánh ở thành phố đông cả triệu
dân này nhưng riêng trên đường King thì tôi tìm được hơn chục. Tôi
bắt đầu bấm số, giữa khuya không ai bắt máy nhưng tôi để lại được
lời nhắn rõ ràng và gọn gàng:
Tôi gọi từ trạm săng Shell, số 1455 đường The Alameda, có ông
Domingo vừa từ Mexico đến đây. Xin đến đón ông ấy ngay hay gọi lại tôi
càng sớm càng tốt (ASAP, as soon as possible) ở số này …
Domingo có vẻ an tâm hơn đôi chút sau khi thấy tôi gọi xong hơn chục
cú phone. Đồng hồ mới chỉ 11:45 PM, cũng sắp giao thừa, tôi
nghe tiếng pháo nổ lác đác đó đây. Những tiệm bánh không mở cửa
trước 6 hay 7 giờ sáng nhưng chắc chắn họ đến làm việc rất sớm để
chuẩn bị ra lò cho loạt hàng đầu tiên.
Hy vọng là sẽ có người đến đón Domingo trước khi đổi ca, chứ không
thì cũng lôi thôi lắm. Thiệt là hy vọng mỏng manh. Lỡ không ai
tới thì sao? Tôi sẽ “làm gì” với người khách lạ này vào sáng ngày
mai, sáng mùng một Tết? Domingo lo lắng đã đành, tôi cũng bắt đầu lo
thấy mẹ luôn vì “tình trạng cư trú” của tôi không được sáng sủa gì
cho lắm.
Tôi đang “chia” chỗ nằm, ở phòng khách, trong apartment một
phòng, với một người đồng hương. Ổng cũng mới chân ướt chân ráo tới
Mỹ y như tôi vậy, và đang làm assembler cho một hãng điện tử
nhỏ. Lương lậu cũng gần ở mức tối thiểu, nghĩa là chả khá hơn tôi
bao nhiêu nhưng cả vợ lẫn con vẫn còn kẹt ở VN, đó là chưa kể khoản
nợ tiền vượt biên – nghe đâu cũng gần chục cây vàng – nên thằng chả
phải “cầy hai job” lận.
Chúng tôi chả mấy khi trò chuyện vì ổng làm việc suốt ngày, còn
tôi thì vắng mặt suốt đêm nhưng tôi biết đương sự không phải là người
dễ tính. Mấy tháng trước, vào một đêm đông cận ngày Lễ Tạ Ơn – ở
trạm săng này – cũng đúng lúc tôi sắp ăn bữa khuya thì một con chihuahua
bé tí teo xuất hiện. Chó lạc ở Mỹ ngó là biết liền: mệt lả, xơ
xác, ngác ngơ, và nhếch nhác cũng y như Domingo bữa nay vậy. Chỉ có
điều khác là con thú khô ráo vì đêm đó không mưa.
Tôi cũng sẻ phần cơm của mình cho chó. Gần đến giờ về, trong khi
tôi loay hoay chùi rửa cầu tiêu nhà tiểu chú chó nhỏ vẫn kiên nhẫn
đứng đợi bên ngoài. Nó theo tôi ra đến nơi đậu xe với ánh mắt lo âu
và dò hỏi.
Tôi ngần ngừ một lát, có lẽ chưa tới một giây, rồi bồng nó lên
xe. Tới lúc đó tôi tôi mới nhận ra là con vật nhỏ bé này bẩn thỉu
hôi hám quá. Tôi phải hạ cả hai kính xe phía trước, dù trời bên
ngoài lạnh buốt.
Về đến nhà tôi mang con chó vào phòng tắm, mở nước nóng, sát xà
phòng tắm luôn. Trời ơi là nó dơ dễ sợ. Tôi phải xối nước ào ào nên
mãi với nghe tiếng nói bên ngoài:
– Làm gì ở hoài trong đó hoài vậy, cha nội? Cho tui tắm rửa đi
làm nữa chớ, trễ rồi.
Cửa mở, hơi nước mù mịt khiến cho ông bạn chung nhà nhăn mặt. Rồi
ngay sau khi nhìn thấy con chihuahua đang loi ngoi trong bồn
tắm thì ông bạn đồng hương của tôi bất chợt nổi điên. Tôi bị chửi
rủa không tiếc lời, và toàn những lời nặng nề thái quá. Ổng lớn
tiếng quát tháo tới mức hàng xóm có kẻ phải ghé mắt vào xem.
Khi hiểu ra sự việc, may quá, có người mách là nếu tôi không muốn
nuôi chó thì có thể mang nó đến animal shelter của thành phố.
Tôi bồng con thú đi ngay, dù lòng buồn vời vợi!
Kinh nghiệm “hãi hùng” sáng hôm đó vẫn chưa phai thì hôm nay tôi lại
lâm vào hoàn cảnh khó xử khác, và khó xử hơn. Tôi thực không biết
sẽ xoay trở ra sao nhưng tôi biết chắc là mình không thể thản nhiên
“bỏ rơi” ông bạn Mễ Tây Cơ này được. Nước Mỹ ở đâu cũng có shelter
cho người vô gia cư nhưng phải là cư dân hợp pháp kìa.
Đang suy nghĩ “miên man” thì chuông điện thoại reo. Đầu giây bên kia
là giọng một người phụ nữ líu lo nghe như tiếng chim, hẳn là tiếng Spanish.
Tôi mừng quýnh đưa máy cho Domingo. Y toét miệng cười ngay sau khi mở
miệng nói “hola” khiến tôi cũng nở một nụ cười (theo) nhẹ nhõm.
Chỉ mười lăm phút sau, một cái xe Ford Torino cũ mèm thắng gấp
giữa trạm săng. Bốn người Mễ cùng túa ra ôm chầm lấy Domingo mừng
rỡ. Tôi cũng mừng luôn, và không chừng (dám) tôi là người mừng nhứt.
Sau ba mươi năm hiện diện trên cõi đời này, chưa có cái sáng mùng một
Tết nào mà tôi thấy vui như vậy.
Tưởng Năng Tiến