“PARASITE” VÀ ĐẠO DIỄN BONG JOON-HO
Oscars lần thứ 92 đã qua đi đúng một tuần. Nhưng có lẽ với đoàn làm phim
“Parasite” nói riêng và những người dân Hàn Quốc nói chung, niềm hạnh phúc và
tự hào sẽ còn đọng lại khá lâu, khi bộ phim cùng lúc đoạt 4 giải quan trọng:
Best Original Screenplay, Best Director, Best International Feature Film và
Best Picture.
Lần đầu tiên điện ảnh Hàn Quốc đoạt giải Oscars, cũng là lần đầu tiên trong
lịch sử Oscars, một bộ phim không nói tiếng Anh đã đoạt giải Best Picture.
Trước đó bộ phim đã giành được hàng loạt giải thưởng lớn: là bộ phim Hàn
Quốc đầu tiên đoạt Cành Cọ Vàng (Palme d’Or) tại Liên hoan phim Cannes tháng
5.2019, Quả cầu vàng cho Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất (the Golden Globe
Award for Best Foreign Language Film), Giải thưởng BAFTA cho Phim hay nhất
không phải bằng tiếng Anh (the BAFTA Award for Best Film Not in the English
Language).
Như mọi giải thưởng lớn về văn học nghệ thuật, giải Best Picture của Oscars
không phải năm nào cũng xứng đáng, có những năm rõ ràng phim đoạt giải không
bằng một phim khác nằm trong số 5 lựa chọn cuối cùng. Nhưng năm nay chiến thắng
của “Parasite” thật sự thuyết phục, mặc dù trước đó, khi “Parasites” lần lượt
đoạt các giải Best Original Screenplay, Best Director, Best International
Feature Film, tôi đã nghĩ có lẽ giải Best Picture sẽ thuộc về “1917” của Sam
Mendes chăng. Nhưng đúng là “1917” mặc dù rất ấn tượng với người xem về mặt
technique-bộ phim được quay với những cảnh quay dài (long takes) và những
chuyển động máy được dàn dựng công phu để tạo hiệu quả của một cảnh quay liên
tục duy nhất (a single continuous shot), khiến người xem có cảm giác nhập cuộc
hơn với những gì đang diễn ra trên màn ảnh; về mặt hình ảnh với phần
cinematography của Roger Deakins, được đánh giá là một trong những nhà quay
phim tài năng nhất hiện nay, và phần dựng cảnh (production design) của Dennis
Gassner-vừa đạt được độ chân thật về lịch sử, hoành tráng trong những bối cảnh
lớn, lại vừa đạt được yêu cầu của đạo diễn là làm cho bộ phim có vẻ như được
quay liên tục. Nhưng dẫu sao cốt truyện của “1917” vẫn bị mỏng.
Trong khi đó, phần mạnh của “Parasite” là toàn bộ từ cốt truyện, chi tiết
(mọi chi tiết đưa ra đều có chuẩn bị kỹ, khớp vào nhau, không có chi tiết nào
thừa), phần diễn xuất, và sự pha trộn tài tình giữa chất bi-hài và cả hồi hộp,
bạo lực của thể loại phim kinh dị hài (dark comedy thriller film).
Câu chuyện phim kể về một gia đình nghèo sống trong tầng hầm ở một khu lao
động đã tìm cách thoát khỏi sự túng bấn, bần cùng bằng việc chụp lấy cơ hội có
được và lập mưu kế để cả nhà được vào làm việc cho một gia đình thượng lưu giàu
có, nhưng rồi có những sự bất ngờ nằm ngoài kế hoạch của họ xảy ra, dẫn đến
những bi kịch đẫm máu và nước mắt.
Chiến thắng của Bong Joon-ho không hề là sự bất ngờ nếu nhìn lại cả chặng
đường sự nghiệp của ông.
Đạo diễn Bong Joon-ho
Bong Joon-ho, nickname trong nghề là Bong Tae-il, sinh năm 1969, không phải
là một tên xa lạ gì đối với với những người yêu điện ảnh nói chung và điện ảnh
Hàn Quốc nói riêng.
Để đi đến chiến thắng lịch sử của điện ảnh Hàn và cả lịch sử của giải thưởng
Oscars ngày hôm nay, đạo diễn Bong Joon-ho đã thực hiện nhiều phim thành công
lớn, đoạt nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế.
Các bộ phim của Bong Joon-ho đa dạng về thể loại. Gần như mỗi phim, Bong
Joon-ho lại thử nghiệm một thể loại mới. “Barking Dogs Never Bite” (2000) là
dark comedy-drama, “Memories of Murder” (2003)-crime-dramma film, “The Host”
(2006)-monster film, “Mother” (2009) và “Sea fog” (2014)-drama film,
“Snowpiercer” (2013)-science fiction thriller film, “Okja”
(2017)-action-adventure film, “Parasite” (2019)- dark comedy thriller film.
Sự lựa chọn đề tài, chất liệu, ý tứ để hình thành kịch bản phim cũng rất
phong phú. “Barking Dogs Never Bite”, còn có tên là “A Higher Animal” hay “A
Dof of Flanders” lấy cảm hứng từ một câu chuyện thú cưng ở châu Âu rất phổ biến
ở các khu vực của Đông Á. “Memories of Murder” dựa trên câu chuyện có thật về
vụ giết người hàng loạt đầu tiên trong lịch sử của Hàn Quốc xảy ra giữa năm
1986 và năm 1991ở tỉnh Gyeonggi, với thủ phạm không bao giờ bị bắt. “Sea
Fog/Haemoo” được chuyển thể từ vở kịch sân khấu cùng tên, dựa trên câu chuyện
có thật về 25 người Hoa gốc Hàn Quốc nhập cư bất hợp pháp, đã bị chết ngạt
trong bể chứa của tàu đánh cá Taechangho. Thi thể của họ đã bị các thủy thủ tàu
dìm xuống vùng biển phía Tây Nam Yeosu vào ngày 7.10.2001. “Snowpiercer” thì
lại dựa trên tiểu thuyết đồ họa Le Transperceneige của Pháp, của Jacques Lob,
Benjamin Legrand và Jean-Marc Rochette…
Có vẻ như Bong Joon-ho thích tìm tòi, thử nghiệm, không phải dạng đạo diễn
trung thành với một thể loại, đề tài, hoặc phong cách, dạng “đạo diễn-tác giả”
mà người xem rất dễ dàng nhận ra phim của họ. Bong Joon-ho cũng sẵn sàng làm
phim thương mại, những bộ phim như “The Host” hay “Snowpiercer” có doanh thu
khá lớn, trong khi vẫn có những bộ phim đoạt giải trong nước hay đi dự tranh
giải tại các liên hoan phim quốc tế.
Có thể nhiều người sẽ thích những phim khác nhau của Bong Jon-ho, nhưng cá
nhân tôi, ngoài “Parasite”, tôi rất ấn tượng với “Memories of Murder” (2003) và
“Mother” (2009).
“Memories of Murder”, như vừa nói ở trên, dựa trên một câu chuyện có thật về
một vụ giết người hàng loạt ở Hwaseong, tỉnh Gyeonggi. Cái xác đầu tiên được
phát hiện là của một cô gái, bị hiếp, bị giết, sau đó bị bỏ trong một cái cống
rãnh gần một cánh đồng.
Đội thám tử địa phương với Park Doo-man chịu trách nhiệm chính, chưa từng bị
đối phó với vụ án nghiêm trọng như vậy, bị choáng ngợp. Bằng chứng chính được
thu thập không chính xác, các phương pháp điều tra của cảnh sát bị ghi ngờ, và
công nghệ pháp y của họ gần như không tồn tại. Seo Tae-yoon, một thám tử từ
Seoul, tình nguyện giúp đỡ họ.
Các thám tử đã gần như tin chắc rằng một công nhân của một nhà máy, người
từng có thời gian phục vụ trong quân đội và chỉ di chuyển đến khu vực này một
thời gian ngắn trước khi các vụ án xảy ra, là thủ phạm. Nhưng họ không có đủ
bằng chứng để bắt anh ta và thêm một vụ giết người nữa lại xảy ra, lần này họ
cũng lại chậm hơn kẻ thủ ác một bước.
Nhiều năm sau, Park Doo-man, bây giờ là một doanh nhân, dừng lại trước hiện
trường tội ác đầu tiên-cái cống rãnh bên đường và được một cô bé cho biết chỗ
này gần đây cũng đã được viếng thăm bởi một người đàn ông khác, trông bình thường,
với khuôn mặt không cảm xúc. Cô bé hỏi anh tại sao người đàn ông nhìn vào
mương, và anh ta nói với cô rằng anh ta hồi tưởng lại những điều mình đã làm ở
đó từ rất lâu rồi. Bộ phim kết thúc với cận cảnh của Park Doo-man khi anh một
lần nữa sững sờ nhận ra mình lại vừa để vuột mất kẻ thủ ác. Và cuối cùng thì vụ
án vẫn không được tìm ra.
“Mother” là câu chuyện về một người mẹ đơn thân, có đứa con trai duy nhất,
Do-joon, thuộc loại thiểu năng trí tuệ, bình thường hiền lành, ngây ngô, nhút
nhát, vô hại như một đứa trẻ con nhưng dễ nổi khùng, mất kiểm soát nếu có ai đó
chọc ghẹo về sự khuyết tật trí tuệ của mình. Một ngày, một nữ sinh trung học
được phát hiện đã chết và được phơi trên một mái nhà trong thành phố, gây sốc
cho cư dân và gây áp lực cho cảnh sát vì không đủ năng lực để tìm ra kẻ giết
người. Với những bằng chứng khá rõ ràng tại hiện trường, cảnh sát bắt giữ
Do-joon vì tội giết người.
Người mẹ, bàng hoàng và không tin rằng Do-joon có khả năng giết người, đã tự
mình đi tìm sự thật để chứng minh sự vô tội của con trai. Nhưng một khi sự thật
được tìm ra, liệu cô có đủ dũng cảm để đối diện với nó?
Trong cả hai bộ phim, đạo diễn Bong Joon-ho đã dẫn dắt người xem đi theo
những câu chuyện khó đoán trước với những chi tiết, tình huống mới liên tục
xuất hiện, có lúc như lái người xem đi theo một hướng khác, tưởng là vậy mà
không phải là vậy. Phim của Bong Joon-ho thường ngồn ngộn chi tiết. Trong cả
hai phim, cái kết đều bất ngờ, và để lại vị đắng chát hoặc nỗi buồn day dứt.
Cả hai bộ phim đã giành được nhiều giải thưởng tại các liên hoan phim Hàn
Quốc và quốc tế.
Khi nhìn lại hàng loạt bộ phim của Bong Joon-ho thì có thể thấy thành công
của “Parasite” ngày hôm nay không hề là một sự bất ngờ cho bao nhiêu năm làm
nghề và luôn nỗ lực hết mình của ông.
ĐIỆN ẢNH HÀN QUỐC, ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM.
Chiến thắng của Bong Joon-ho nói riêng và điện ảnh Hàn Quốc ngày hôm nay là
cả một chặng đường dài xây dựng một trong những nền công nghiệp điện ảnh hàng
đầu.
So với nền công nghiệp âm nhạc K-pop, nền công nghiệp thời trang hay làm
đẹp, lan rộng và có sức ảnh hưởng hầu khắp thế giới, sự thành công ở mức độ
quốc tế của nền điện ảnh Hàn Quốc có phần chậm hơn. Nhưng cho đến bây giờ thì
họ đã có những đạo diễn điện ảnh được biết đến rộng rãi trên thế giới với những
giải thưởng quốc tế.
Như Lee Chang-dong, sinh năm 1954, trong đó bộ phim mới đây, “Burning “
(2018) của ông được chọn dự thi Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại Giải
thưởng Oscars lần thứ 91; mặc dù không được đề cử, nó đã trở thành bộ phim đầu
tiên của Hàn Quốc lọt vào danh sách shortlists 9 phim cuối cùng.
“Burning” cũng giành được giải thưởng của các nhà phê bình quốc tế Fipresci
tại Liên hoan phim Cannes lần thứ 71, Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất trong
Hiệp hội phê bình phim Los Angeles và Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất trong
Hiệp hội phê bình phim Toronto.
Đạo diễn Kim Ki-duk, sinh năm 1960, với hàng loạt bộ phim nổi tiếng như
“Spring, Summer, Fall, Winter… and Spring” (2003), “3-Iron”-Sư tử Bạc cho giải
Best Director tại Liên hoan phim Venice lần thứ 61, “Samaritan Girl” (2004)-Gấu
Bạc cho Best Director tại Liên hoan phim quốc tế Berlin, “Arirang” (2011)-giải
Un Sure Regard tại Liên hoan phim Cannes 2011, “Pietà” (2012)-đoạt Sư tử Vàng
tại Liên hoan phim Venice lần thứ 69 năm 2012…
Hay Park Chan-wook, sinh năm 1963 với những bộ phim ‘Thirst” (2009), “The
Handmaiden” (2016), “The Vengeance Trilogy’, bao gồm “Sympathy for Mr.
Vengeance” (2002), ‘Oldboy” (2003) và “Lady Vengeance” (2005). Trong đó
“Oldboy” đoạt giải Grand Prix tại Cannes 2003 hay “The Handmaiden” đoạt Best
Foreign Language Film tại nhiều Liên hoan phim ở Boston, Dallas, Los Angeles,
New York, San Fanscisco…
Nói tóm lại điện ảnh Hàn Quốc đang có một thế hệ đạo diễn vàng sinh vào
những năm 50, 60 của thế kỷ XX, chưa kể lứa đạo diễn trẻ hơn, sinh vào những
năm 70 như Na Hong-jin, Yeon Sang-ho, Lee Byung-hun, Lee Jeong-beom…
Thành công đó không phải ngày một ngày hai mà có. Nó là kết quà của nhiều
năm xây dựng nền công nghiệp làm phim, đào tạo vun đắp tài năng trong một môi
trường làm phim thuận lợi.
Một môi trường thuận lợi là điều kiện để cho mọi tài năng phát triển và
thăng hoa. Môi trường thuận lợi đó là gì. Là tự do sáng tác, không bị trói tay
bịt mồm bởi một chế độ kiểm duyệt ngặt nghèo và ngu xuẩn trong một thể chế độc
tài. Là có một nền công nghiệp điện ảnh phát triển từ kỹ thuật, máy móc, thiết
bị, phim trường. Là luật pháp rõ ràng, chặt chẽ để bảo vệ tác phẩm, tác quyền.
Là khâu đào tạo: trường lớp, giảng viên, tài liệu, điều kiện học tập, thực
hành…những người làm điện ảnh có cơ hội học hỏi, tiếp cận với những nền điện
ảnh khác nhau trên thế giới và những tác phẩm điện ảnh tinh hoa từ xưa đến nay…
(Cũng có những ngoại lệ như điện ảnh Iran, điều kiện kiểm duyệt còn khe khắt
hơn cả Việt Nam vì là một quốc gia Hồi giáo, ví dụ không có cảnh “nóng”, không
có những cảnh khỏa thân, thậm chí không có cả một nụ hôn đúng nghĩa, không bạo
lực, chết chóc…, bên cạnh đó, nền công nghiệp điện ảnh cũng như điều kiện học
hành cũng không phải thực sự đủ tốt, nhưng phim Iran vẫn giành được rất nhiều
giải thưởng lớn trên thế giới từ khoảng vài thập niên qua. Đó là vì những nhà
làm phim Iran, rất tài năng, đã có sự lựa chọn, giải quyết rất thông minh để né
kiểm duyệt và tạo ra một dòng phim riêng, phong cách riêng không lẫn vào với
các nước khác-lựa chọn những chủ đề nhỏ, bối cảnh đơn giản, cốt truyện không
phức tạp, không quá tốn kém…và quan trọng nhất, không “học đòi”, bắt chước ai
cả)
…và Việt Nam
VN có những lợi thế là cả một kho đề tài với chất liệu phong phú, dữ dội của
một quốc gia đã và vẫn đang trải qua quá nhiều bi kịch, cả thời chiến lẫn thời
bình. Các nhà làm phim VN không cần phải tưởng tượng, hư cấu gì, cuộc sống xã
hội với quá nhiều mâu thuẫn, quá nhiều phi lý trớ trêu, bất công xã hội hay tội
ác diễn ra hàng ngày…đủ cho mọi thể loại phim. So với những bi-hài kịch trong
xã hội VN thì mâu thuẫn giàu nghèo, giai cấp trong “Parasite” thực sự chưa là
gì cả. Chưa kể kho tàng văn hóa chưa được khai thác của một đất nước có lịch sử
lâu đời, có 54 dân tộc anh em cùng chung sống, hơn 8000 lễ hội một năm và bao
nhiêu truyền thống phong tục văn hóa.
Tôi cũng tin rằng VN không thiếu tài năng. Thế giới chưa biết gì nhiều về
VN. Chỉ cần đi sâu khai thác những câu chuyện, những vấn đề của VN, văn hóa VN,
là sẽ trở nên độc và lạ đối với người xem trên thế giới. Chỉ có điều những
người làm phim VN đừng nghĩ rằng để “độc”, “lạ”, “mới” là phải khai thác những
đề tài về sex, đồng tính, bạo dâm gì đó chẳng hạn, những cái đó thế giới người
ta làm đầy, chả có gì mới cả.
Song VN dưới chế độ do đảng cộng sản lãnh đạo sẽ khó mà có được những tên
tuổi lớn và những tác phẩm lớn vì Việt Nam không có một môi trường thuận lợi.
Không chỉ đối với điện ảnh là lĩnh vực không chỉ cần có tài năng mà phải có
tiền, có kỹ thuật, phương tiện đầy đủ, mà ngay cả âm nhạc, văn học, hội họa,
hay thậm chí báo chí Việt cũng không thể cất cánh nổi trong một chế độ độc tài,
ngu dân, lãnh đạo thì hầu hết là những kẻ ngu dốt, xôi thịt, không biết thưởng
thức văn học nghệ thuật.
Song Chi