Mùa hè năm 2018, vợ chồng tôi lái xe từ Thụy Sĩ sang vùng
Normandie (Pháp), để đi dọc theo các bãi biển nổi tiếng từng là vết tích bi
hùng trong Đệ Nhị Thế Chiến.
Chúng tôi chọn Cabourg làm nơi nghỉ. Đây là một thành phố nhỏ,
nằm giữa Deauville thơ mộng và Caen nơi có Đài Tưởng niệm Đệ Nhị Thế Chiến và
cuộc Đổ bộ Normandie giàu cảm xúc.
Cứ thế, mỗi ngày, vợ chồng chúng tôi đưa ba đứa nhỏ đi tham
quan các bãi biển nơi diễn ra cuộc Đổ bộ lịch sử tại vùng Normandie. Bắt đầu từ
chiếc cầu nổi tiếng Pegasus (Pegasus Bridge) đến Le Grand Bunker tại Musée du
Mur de l’Atlantique (Nhà Bảo tàng Bức Tường Đại Tây Dương), chúng tôi ghé
Sword, một trong 5 bãi biển nơi đồng loạt diễn ra cuộc đổ bộ của quân đội Đồng
minh.
Mờ sáng ngày 6/6/1944, hơn 150 ngàn binh lính Đồng minh đã ồ
ạt mở cuộc tấn công vùng Normandie qua 3 ngã: trên không, trên biển và trên bộ.
Đó “có lẽ” là thời khắc lịch sử quyết định cục diện của Đệ Nhị Thế Chiến. “Có lẽ”,
bởi vì người Nga vẫn cho rằng phương Tây và Mỹ cố tình phóng đại quá mức tầm
quan trọng của cuộc đổ bộ này nhằm hạ giảm những nỗ lực của Liên bang Xô Viết.
Tuy nhiên, một cách khách quan, đó là một cuộc tấn công quan trọng nhằm giải
phóng nước Pháp, mở đường cho việc đánh bại quân đội Đức, chấm dứt cuộc chiến
tranh thế giới tàn khốc này.
Sau Sword là các bãi biển khác như Juno, Gold, Omaha và
Utah. Ohama có lẽ là nơi mang lại nhiều cảm xúc nhất cho chúng tôi. Đưa bọn trẻ
xuống bãi biển nơi những người lính Mỹ anh hùng đã hy sinh trong trận chiến ác
liệt với quân đội Đức cách đây hơn 74 năm khiến khóe mắt cay cay. Thả hồn nhìn
về đại dương mênh mông, sóng vỗ nhè nhẹ, cảm giác sự an lành của ngày hôm nay
đã phải đổi lấy máu xương của hàng ngàn người lính đến từ chân trời xa xôi.
Càng cảm động hơn khi chiêm ngưỡng Biểu tượng Les Braves (Những Người Dũng Cảm)
do bà Anilore Banon, điêu khắc gia người Pháp dựng nên. Sóng vỗ liên tục và Biểu
tượng vẫn đứng thẳng như lòng can đảm của những người lính quên mình giải thoát
nước Pháp khỏi xiềng xích của Đức Quốc xã. Biểu tượng còn mang lại niềm hy vọng
vào những giá trị vĩnh hằng như lòng khoan dung, sự độc lập cũng như tình hữu
nghị giữa con người và các dân tộc. Hơn 35 ngàn lính Mỹ đã anh dũng chiến đấu tại
đây và hơn 3 ngàn người đã mãi mãi nằm xuống trên bãi biển này vì hai chữ Tự
Do.
Les Braves (Ohama Beach) – Ảnh:
tác giả
Chiều đã về, gió bất chợt thổi từng đợt, từng đợt từ phía đại
dương vào bờ. Chia tay Bãi biển bi hùng, chúng tôi lái xe lên Nghĩa trang quân
đội Mỹ nằm tại ngôi làng nhỏ Colleville-sur-Mer ngay phía trên Bãi Ohama. Đây
là nơi an nghỉ của 9387 binh sĩ Mỹ đã hy sinh trong Trận Normandie. Nghĩa trang
Quân đội Mỹ tại Colleville-sur-Mer là biểu tượng cao cả về sự hy sinh của
nước Mỹ cho việc giải phóng Châu Âu. Tại Nghĩa trang, từ trên cao, người ta có
thể nhìn xuống Bãi biển Ohama, nơi nguy hiểm nhất trong tất cả Chiến dịch
Overlord vào ngày 6/6/1944.
Nghĩa trang Quân đội Mỹ là nghĩa trang quân sự nổi tiếng nhất
ở Normandie. Những cây Thánh giá Kitô giáo bằng đá cẩm thạch trắng xếp dọc theo
những hàng dài hoặc những Ngôi sao David tượng trưng cho sự hy sinh của các nước
Đồng minh, và đặc biệt là của Mỹ, để bảo vệ tự do cho cả châu Âu. Màu trắng là
màu chủ đạo tại đây. Nó gợi lên sự tinh khiết và toàn vẹn như chính cuộc đời của
những người lính Mỹ đã nằm xuống trên mảnh đất này. Đó là những chàng thanh
niên còn trẻ, rất trẻ, từ khắp mọi miền của nước Mỹ xa xôi, đã cầm súng chiến đấu
bảo vệ thế giới tự do.
Chúng tôi lặng lẽ ngắm các cây cột lớn được xếp theo hình
bán nguyệt cũng như các đài tưởng niệm xung quanh. Những bước chân nhè nhẹ trên
những thảm cỏ xanh mượt, chung quanh những ngôi mộ như thể không muốn làm phiền
những hương hồn đang yên nghĩa tại đây. Những cái tên khắc trên những cây thập
tự trắng để lại trong tôi nhiều ám ảnh và suy tư. Ám ảnh về sự tàn khốc của một
cuộc chiến. Suy tư về sự tàn bạo và ngu muội của con người khi chạy theo tham vọng
và quyền lực đen tối. Ngày D-Day là ngày mà người Mỹ phải chịu rất nhiều mất
mát. Trên một bức tường hình bán nguyệt, ở phía đông, của đài tưởng niệm là tên
của 1557 binh sĩ Mỹ hy sinh trong trận chiến. Thi thể của họ đã không bao giờ
được tìm thấy hoặc được xác định lý lịch rõ ràng.
Nghĩa trang Quân đội Mỹ
(Colleville-sur-Mer)- Ảnh: tác giả
Đứng từ trên cao, nơi các binh sĩ Mỹ được chôn cất, nhìn về
phía dưới, Bãi biển Ohama, trong một chiều nhiều sóng và gió mới cảm thấy hết
được sự hào hùng của cuộc Đổ bộ – Débarquement tại đây. Các vách đá cao thẳng đứng,
nhọn như những mũi chông, tưởng như là một thành trì kiên cố bảo vệ cho quân đội
Đức, sau cùng cũng bị chinh phục bởi lòng quả cảm của những người lính chỉ độ
ngoài 20 tuổi. Xa xa là Point du Hoc, mỏm đá nhô ra làm ranh giới giữa hai bãi
Utah và Ohama, nơi giao tranh khốc liệt giữa quân đội Mỹ và Đức trong
ngày D-Day.
Đang miên man suy nghĩ thì bất chợt con gái, chưa được 8 tuổi
hỏi chúng tôi: “ Người Đức ác như thế thì chắc họ không được chôn cất
đàng hoàng, đúng không ba mẹ?”. Tôi chưa kịp nói gì thì vợ tôi đã ung dung
mỉm cười bảo với nó rằng:” Người Đức cũng thế, họ cũng chỉ là nạn nhân của
cuộc chiến này. Họ đã chết, không còn lại thù hận gì nữa con ạ”.
Tôi bảo với các con rằng người Đức vẫn được chôn cất tử tế
sau cuộc chiến đẫm máu này. Trời chạng vạng tối, tôi hứa sẽ đưa các con đi xem
Nghĩa trang Quân đội Đức tại La Cambe, cách nơi đây chừng hơn 10 cây số.
Ngày hôm sau, chúng tôi lại lên đường từ Cabourg để đi La
Cambe, xa hơn 100 cây số. Trên suốt chuyến đi, bọn nhỏ thắc mắc nhiều điều về
cuộc chiến, về những trận đánh và cả về những cái chết của người lính từ mọi
bên. Trên đường cao tốc, nhiều tấm bảng lớn ghi lại địa danh của những trận
đánh tại vùng Normandie. Chúng tôi rẽ vào quốc lộ 13 để đi đến La Cambe. Càng đến
gần, tôi càng cảm động. Một sự cảm động khó hiểu. Tôi muốn tận mắt được nhìn thấy
nơi yên nghỉ của những người lính Đức, những người đã tham dự và một cuộc Thế
chiến đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại.
Nghĩa trang Quân đội Đức (La
Cambe) Ảnh: tác giả
Từ bên ngoài, hiện ra một cái gò cao trên đó là một cây
thánh giá lớn màu đen bằng nham thạch đứng sừng sững. Khác với màu trắng tinh
khiết của người Mỹ, nơi đây là màu đen của sự tang tóc, của nỗi buồn day dứt và
khôn nguôi. Người Đức chọn màu tối đen như để xám hối với chính lịch sử của ông
cha họ gây ra. Cái gò trung tâm nghĩa trang là nơi chôn cất của hơn 207 binh sĩ
vô danh cũng như 89 người chết đã được xác định sau này. Xung quanh gò là 49 mảnh
đất hình chữ nhật, mỗi mảnh đất có khoảng 400 ngôi mộ.
Nghĩa trang Quân đội Đức (La
Cambe) Ảnh: tác giả
Có tất cả 21222 ngôi mộ của những binh sĩ Đức tại Nghĩa
trang này. Đó là những binh lính đã tử trận trong những trận chiến tại vùng
Normandie, từ ngày 6/6 đến ngày 20/8/1944.
Giữa trưa hè oi bức nhưng chúng tôi lại cảm nhận một sự tĩnh
lặng dễ chịu. Những cây Thánh giá Celtic và những tấm bia mộ được dựng trên thảm
cỏ xanh mượt. Tên tuổi, ngày sinh và mất. Chỉ có thế. Đơn giản thật. Suy cho
cùng, con người cũng đã về với cát bụi. Hai đứa nhỏ bỗng dừng lại bên một tấm
bia mộ, chúng đếm và tính gì đó, bỗng anh trai nói với em gái: “Ông này chết
lúc 18 tuổi”.
Nghĩa trang Quân đội Đức (La
Cambe) Ảnh: tác giả
Quả thật, nhiều người trong số những người lính này vẫn còn
rất trẻ – họ chỉ mới 18, 19 hoặc 20 tuổi. Họ đã chết trong cuộc đổ bộ của quân
Đồng minh và các trận chiến sau đó.
Và giờ họ yên nghĩ tại mảnh đất này, cách không xa những Bãi
biển của ngày D-Day năm xưa.
Một tấm bia kỷ niệm ngay lối vào Nghĩa trang gợi lại số phận
chung của những người lính Mỹ và Đức đã ngã xuống trên những chiến trường khốc
liệt và đẫm máu tại vùng Normandie. Người Mỹ hay người Đức hoặc những binh sĩ Đồng
minh, suy cho cùng cũng chỉ là những nạn nhân của cuộc chiến này.
Nghĩa trang Quân đội Đức (La
Cambe) Ảnh: tác giả
Trước chuyến đi, tôi tự nhủ sẽ tìm cho ra bia mộ của Michael
Wittmann, một viên chỉ huy xe tăng Đức đáng gờm nhất trong Đệ Nhị Thế Chiến. Tấm
bia mộ của ông đã từng bị đào trộm vài lần. Cuối cùng, khi tận mắt nhìn thấy những
tấm bia mộ của những binh sĩ vô danh, tôi nhanh chóng bỏ đi cái ý muốn ấy.
Chúng tôi dạo bước trong Nghĩa trang. Dường như chẳng ai nói
với ai điều gì. Ngay cả bọn nhỏ, chúng cũng im lặng. Tôi khẽ nói với con gái: “
Con thấy đó, người Đức họ cũng được đối xử một cách tử tế tại đây”.
Dường như nó muốn khóc, nó bảo: “ Con không thù ghét người
Đức nữa…”.
Mà sự thù hận mới chính là điều chúng tôi chưa hề cảm nhận
trong suốt một tuần rong đuổi khắp nơi theo những vết tích của cuộc Đổ bộ tại
Normandie. Những viện bảo tàng, những di tích lịch sử, những hầm lô cốt với những
khối đại bác khổng lồ chĩa thẳng xuống biển hay những đài tưởng niệm cũng chỉ
là những chấm phá lịch sử cho thế hệ mai sau với một thông điệp nhân văn và hòa
bình: Hãy hiểu biết VÌ SAO để tránh những đổ máu cho tương lai.
Hai Nghĩa trang Quân đội của người Mỹ và người Đức nằm dọc
theo những Bãi biển lịch sử là một minh chứng hùng hồn cho lòng khoan dung và độ
lượng của người phương Tây và người Mỹ sau cuộc chiến tàn khốc. Họ tha thứ cho
nhau, họ cảm thông với nhau để cùng nhìn về tương lai, như Vườn Hòa Bình được
xây dựng kế bên Nghĩa trang của người Đức.
Tôi bảo với các con rằng, mỗi ngôi mộ nơi đây như một lời
khích lệ cho khát vọng hòa bình trên thế giới. Chiến tranh, có lẽ là sự ngu xuẩn
nhất của con người, mà thế giới đang mong mỏi xóa bỏ.
75 năm trôi qua và sự phẫn nộ chống lại người Đức đã phai
nhòa theo năm tháng. Sự hiện diện của những nghĩa trang quân đội Đức tại Pháp
góp phần tích cực vào sự hòa giải Pháp-Đức sau Thế Chiến.
Trước khi ra về, tôi chợt đọc hai câu nói được khắc ghi trên
một bức tường nhỏ. Một của Léo Tolstoi: “Avant que la guerre n’éclate au
grand jour, elle germe pendant longtemps dans le coeur des hommes ( Chiến
tranh nẩy mầm trong trái tim của con người trong thời gian dài trước khi nó
bùng nổ ) ”. Câu kia của nhà triết học người Đức, Albert Schweitzer: “Les
tombes de la guerre sont de véritables prédicateurs de paix ( Những ngôi mộ
của cuộc chiến tranh là người cổ xúy thực thụ cho hòa bình)”.
Trước chuyến đi, tôi đã có những chủ ý cho các con và cho
chính bản thân mình. Rời khỏi nơi an nghỉ của người Đức tại La Cambe, hai câu
nói của Tolstoi và Schweitzer cứ ám ảnh tôi mãi. Nó dày vò tâm hồn tôi trên suốt
đoạn đường về lại Cabourg. Cho đến cả ngày nay, gần hai năm sau…
Những kẻ thù của ngày hôm qua giờ đã thành cát bụi. Không
biên giới, không oán hận. Vạn sự giai không! Đứng xa nhìn về Nghĩa trang Quân đội
tại Ranville, nơi chôn cất những binh sĩ Pháp, Anh, Mỹ, Bỉ, Cannada, Úc, Tân
Tây Lan, Ba Lan và Đức mới cảm thấy thế giới văn minh nhân đạo lắm thay!
Từ La Cambe, tôi chạnh lòng nghĩ đến Nghĩa trang Quân đội Việt
Nam Cộng Hòa tại Biên Hòa. Số phận của gần 19 ngàn binh sĩ và sĩ quan Việt Nam
Cộng Hòa nơi đây là một minh chứng đau lòng cho sự thù hận tột đỉnh của những kẻ
thắng cuộc. Khi mà người Đức được chôn cất đàng hoàng thì Nghĩa trang của người
lính Việt Nam Cộng Hòa lại bị cố tình bỏ rơi vào quên lãng, đắm chìm trong đìu
hiu và hoang phế. Không hề có sự khoan dung hay vị tha của những kẻ chiến thắng.
Hận thù là tất cả, ngay cả đối với những nắm xương tàn theo thời gian dần trôi…
Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa – Ảnh:
internet
Nếu phải nhìn vào những cuộc chiến, những ngôi mộ của những
người lính, bất chấp chiến tuyến, để tìm thấy được niềm hy vọng vào hòa bình,
vào sự hóa giải hận thù thì những gì xảy ra tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa
là đáng bị lên án. Nó đi ngược lại mọi qui luật của thế giới tiến bộ trong thế
kỷ 21.
Phương Tây không giáo điều. Sử sách ghi lại những sự kiện đã
xảy ra không nhằm khơi dậy lòng thù hận giữa các dân tộc. Họ cố gắng nhiều để
loại bỏ những sai lầm trong quá khứ. Họ không khẩu hiệu, kêu gọi hay khích động
lòng tự tôn dân tộc hay cổ súy cho chủ nghĩa dân túy. Họ nhìn vào tương lai.
Họ Lớn khi họ biết Tha thứ…
Hận thù, có lẽ là tính đặc thù của người Việt từ bao ngàn
năm qua. Có bao giờ cha ông chúng ta khoan dung để xóa bỏ oán hận với nhau?
Đã 45 năm trôi qua, ngay cả nấm mồ của những người đã tử trận
trong cuộc chiến tang thương vẫn chưa được nhìn nhận và tôn trọng thì hương hồn
của họ bao giờ mới sớm được siêu thoát?
Và “hận thù” này bao giờ mới được xóa bỏ hẳn khỏi ký ức
nghèo nàn của một dân tộc tàn ác và đố kỵ nhưng mộng tưởng vị tha.
Lausanne,
Lâm Bình Duy Nhiên
29 tháng Tư 2020