(tặng Phan Xuân Sinh)
- Thiếu úy! Thiếu
úy! Em nghĩ chắc vùng này đây.
- Tui xin ông, đừng
có một thiếu úy hai thiếu úy. Bây giờ tui là công dân hạng ba. Ông
có biết toa tàu hạng ba không? Người nhốt chung với súc vật. Thế
đó.
Quay về phía Nga, Sang hỏi:
- Em mệt
chưa? Nàng đang đứng tựa vào một gốc cây khô, dùng tay gạt gạt mồ hôi
trên trán. Nàng mỉm cười, vừa nói vừa nhìn sâu vào cánh rừng.
- Anh Tùy đừng gọi
ảnh là thiếu úy nữa, phải gọi là ngài Đại tướng, phải không anh?
Sang thầm nghĩ trong đầu: Ừ nhỉ, ngày xưa anh thường nói đùa với Nga là chắc phải lên đến Đại tướng thì cuộc chiến tranh này mới chấm dứt. Nhưng mới mang cái hàm thiếu úy chưa ấm ngực thì người anh em thân mến nào đó ở bên kia đã dành cho anh một trái mìn. Trái mìn oan nghiệt đó đã giữ lại của anh bàn chân phải. Cám ơn người anh em vô danh nào đó. Cám ơn nhà thiên tài nào đó đã sáng chế ra quả mìn. Anh giải ngũ với tỉ lệ thương tật 75%. Nga khóc một tuần. Anh nốc bia một tháng. Dm! Thế là ấm đời nghe con. Từ nay không còn chui nhủi từng đêm từng ngày trong rừng sâu, trong làng mạc hẻo lánh, không còn sợ người anh em thương mến nào đó giương súng nhắm vào ngực anh, nơi trái tim anh đang đập, nơi cất giấu đôi mắt của Nga.
Ô hô! Thế là tao nghĩ chơi nghe tụi bây. Hãy cố mà chơi cho hết mình nghe các con. Hỡi thằng Thi, thằng Kiếu, thằng Thao. Hãy tập làm người máu lạnh. Bắn không thương xót. Càng nhiều đứa chết tụi mày càng mau lên tướng. Hãy ngủ với muỗi rừng. Ngày mai về ngủ trên nệm êm. Caravel Continental. Hãy cố uống nước bùn có mùi nước đái trâu. Ngày mai về nốc Whisky. Hãy ôm xác bạn bè mà ngủ qua đêm vì trực thăng tải thương không tải kịp. Mai về tha hồ ôm mấy em, từ loại 10 đô la đến 100 đô la. Ô hô. Tao nghĩ chơi rồi. Từ giã tụi mày. Giã từ núi rừng Trung Việt. Giã từ giày trận, nón sắt. Giã từ bản làng xơ xác.
Giã từ xác chết. Giã từ ngày khát cháy khô, đêm lạnh cóng bầm tím thịt da. Giã từ. Giã từ. Tao sẽ về ngồi trong ngôi từ đường của dòng họ, ngôi từ đường mà đạn pháo làm tung mất một mái. Ông bà tổ tiên không được ngồi yên trên bàn thờ, vung vãi bài vị các ngài. Tao sẽ về trong ngôi từ đường, nhặt từng mảnh gỗ có khắc những dòng chữ mà tao không thể đọc được, nhưng với tao đó là những dòng bí nhiệm. Tao sẽ khám phá theo cách của tao, sẽ trò chuyện với các ngài theo cách của tao. Hãy vui lên đi nghe các con. Tao đếch cần tụi mày thương hại. Mà tụi mày phải mừng cho tao chứ. Tao bây giờ buổi sáng nốc bia. Buổi trưa nốc bia. Buổi tối nốc bia. Có người yêu ôm trong tay. Có người yêu làm tình làm tội. Có người yêu đẩy xe lăn đi khắp phố phường.
Hãy bắn giết thật nhiều mà lên tướng. Tự do nô lệ cái
con khỉ khô! Đứa nào cũng ra rả, tao nghe mà lợm giọng.
- Anh nhớ tới ai
mà xa xôi thế?
Nga dịu dàng đến bên anh, ấn vai anh ngồi xuống bên cạnh.
Nàng mở xắc lấy chai nước.
- Anh Tùy uống nước
đã.
Tùy đến bên một lùm cây còn ít cành xanh, ngồi xuống
đó. Buổi trưa thinh lặng. Cây rừng thưa thớt và khô. Vài con chim
thảng thốt bay lên kêu những tiếng kêu buồn rười rượi.
- Chị với ông Sang
uống đi, tui không khát. Ông Sang nè, ông phải cảm ơn cái thằng nào đó
gài trái mìn cho ông giẫm lên, chỉ xin của ông có một bàn chân. Nếu không
có quả mìn đó ông đã banh ngực vì một thằng kia ngay sau đó rồi.
- Thì tui đã nói
mà, vô cùng cảm ơn trái mìn ân huệ, vô cùng cảm ơn người anh em nào đó.
Tui càng cảm ơn trời đất nữa. Ngày đó mà tôi xanh cỏ rồi thì bây giờ Nga
đã tay bồng tay bế với một thằng nào đó trong đám bạn của tôi. Phải không
em?
Nga trừng mắt nhìn Sang:
- Dĩ nhiên! Không
biết chừng lại có vài chú nhóc đen như than hầm, bây giờ Nga đã tót sang Mỹ rồi,
chứ đâu có lầm lủi theo cái anh chàng thương binh cụt giò này đâu.
Sang bỗng cười ha hả.
- Ông nghe
không? Ấy, đời nó là thế. Mà em cũng phải cảm tạ đất trời
nghe. May mà còn có anh để lầm lủi đi theo. Chứ không thì cũng có
nước đi bán bia ôm thôi.
Nga cấu nhẹ vào vai Sang:
- Ừ nhỉ, biết đâu
đấy.
Tùy đưa mắt nhìn khắp khu rừng:
- Ông nhận ra vùng
này chưa? Hình như ông bị nơi kia kìa, gần cái mô đá tổ ong đó. Rồi!
Đúng rồi!
Như sực nhớ ra điều gì, Tùy bước đến bên Sang trong khi Nga
dùng cành cây quạt quạt cho mát.
- Ông có nhớ trước
khi trực thăng bốc ông đi, ông nói gì với tôi không?
- Nhớ chứ.
Tùy quay về phía Nga đang mở to mắt chú ý nghe.
- Chị biết
không? Lúc ấy bàn chân anh ấy đứt lìa, máu ra nhiều lắm, người anh ấy
xanh mét, nhưng vẫn còn tỉnh táo. Ảnh nắm tay em và dặn: “Tùy nhớ chôn
dùm cái bàn chân của mình. Đừng để dòi bọ nó gặm nhấm, mình đau lắm.
Nhớ giúp mình. Mình sợ lắm!”
Lúc ấy em thấy buồn cười lắm nhưng cũng phải làm theo ý của
anh Sang. Và em đã chôn cẩn thận. Sau này mỗi lần về phép em đều đến
thăm anh Sang, lúc đó em cũng đã gặp chị rồi. Lúc nào ảnh cũng hỏi đã thật
chôn cái bàn chân chưa.
Ngừng một lát Tùy tiếp:
- Thật ra thì em
đã chôn rất cẩn thận, lại còn lấy một mảnh mìn chôn theo, và đúng là em chôn
ngay mô đá tổ ong đó. Đúng rồi.
Tùy mở ba lô lấy ra một cái xẻng cá nhân, loại xẻng trước
kia quân đội Cộng Hòa dùng để đào hố cá nhân, anh nôn nao định bắt tay vào việc
đào bới ngay nhưng Sang ngăn lại:
- Khoan đã.
Chúng ta nghĩ ngơi và ăn cái gì đi.
Quay sang Nga anh nói:
- Em trải tấm ni
lông dưới bóng mát lùm cây kia, anh sẽ mang túi xách tới.
Nga ngoan ngoãn làm theo, nhưng chân tay chị bỗng run
run. Một cảm giác ớn lạnh chạy khắp người chị. Một người đi đào bới
tìm kiếm chính một phần xương thịt của mình. Thật kinh khủng và bi thảm.
Lại nữa, phần xương thịt đó mất đi mà được xem như là một may mắn, một sự may mắn
làm chảy nước mắt. Mỉa may thay!
Vừa bày thức ăn ra tấm ni lông. Sang nhìn Nga:
- Anh không hiểu
em nghĩ thế nào về việc này, nhưng với anh, anh thấy cần thiết vô cùng.
Anh không thể mang cái ý nghĩ làm một con ma què cụt. Bàn chân của anh,
anh phải đem về, sau này nếu phải đến lúc vĩnh biệt cõi trần gian, nó sẽ được nằm
chung với xác thịt của anh trong một nấm mồ, anh mới an tâm. Dù khi sống,
anh là một người què cụt, nhưng khi chết đi anh không thể làm con ma què cụt được.
Làm người chưa trọn vẹn thì cố làm con ma cho trọn vẹn.
- Anh nói chi nghe
mà buồn quá.
- Thiếu úy, à, anh
Sang, khi anh nằm quân y viện có một ông chuẩn úy mới ra trường bổ sung, thay
anh, anh biết sao không? Cầm quân chưa được một tuần, lãnh ngay quả B 40.
Tụi tôi phải trải tấm poncho ra nhặt từng mẫu thịt, xương, vung vãi khắp nơi,
gom lại cũng gần đủ. Chỉ thiếu một cái chân. Nguyên một cái
chân. Lạ thật. Chuẩn úy Hải. Anh biết ông này không? Trẻ
măng.
- Không.
Nhưng không tìm thấy cái chân thật à?
- Thật. Gia
đình thân nhân không biết. Họ chỉ nhận được chiếc quan tài đã phủ cờ và
hoa.
Sang thở dài.
- Tội nghiệp.
Vậy là anh ta phải làm một con ma què cụt. Sao không kiếm cho anh ta một cái
chân giả?
Nga xen vào.
- Anh kỳ thiệt.
Ai lại đi lắp cái chân giả cho một xác chết.
- Ừ nhỉ. Ai lại đi
lắp cái chân giả cho một xác chết.
Rồi anh nói như nói với chính mình.
- Chắc tôi phải
tìm cho anh một cái chân, anh bạn ạ.
***
Vài ba người phụ nữ đi nhặt củi khô, theo đường mòn từ trong
rừng đi ra, ngang qua chỗ ba người lạ đang ngồi, họ cũng dừng lại, đặt bó củi ở
trên đầu xuống, dùng cái nón cời quạt quạt và tò mò nhìn. Một người trong họ
trông còn trẻ lắm, nhìn cái xuổng và thức ăn bày trên tấm ni lông, rồi nhìn Nga
chị hỏi:
- Chị và hai anh
đây ở đâu tới phải không?
Sang nhanh miệng đáp:
- Vâng.
- Vùng này ít người
qua lại – Người phụ nữ trẻ nói tiếp – quanh đây mìn nhiều lắm. Mới tháng
trước đây có một người bị mìn đấy. Dưới kia kìa – Chị đưa tay chỉ về cuối
cụm gai mắc cở cách chỗ ba người ngồi chừng trăm mét.
Người phụ nữ lớn tuổi hơn ra vẻ biết rõ khu này, nói:
- Chúng tôi ở đây
chỉ đi trên những lối mòn, tránh những chỗ khả nghi có đánh dấu bằng những hòn
đá. Nhưng cũng may may rủi rủi. Vô phúc thì: “Ầm!”
Xong!
Nga lấy nước mời ba người phụ nữ, họ từ chối. Người phụ
nữ trẻ nói:
- Chúng tôi có đủ
nước rồi. Anh chị cẩn thận đó. Tụi tôi về.
- Các chị về.
Ba người đi nhặt củi vừa khuất, Nga lên tiếng trước:
- Trời ơi, em sợ lắm.
Đi tìm bàn chân của anh, biết có chưa, chưa biết chẳng may để lại thêm cái nữa…
Sang trấn an:
- Không có gì
đâu. Bây giờ ăn xong, em ngồi đây. Anh với anh Tùy đến đào thử chỗ
mô đá tổ ông kia. Nếu không có thì chúng ta về. Anh đành làm con ma
què cụt vậy.
- Anh Sang
à. Tùy nói, thời buổi này tôi thấy nhiều người què cụt lắm. Què cụt
chân tay đã đành, khối thằng què cụt cả cái đầu. Ấy thế mà chúng vẫn sống
phè phởn đấy.
- Ừ nhỉ. Cái
đầu què cụt mà vẫn sống. Hay thật. Em có nhìn thấy anh bị què cụt
cái đầu không? Nga?
Nga tư lự:
- Một cái đầu què
cụt, gắn thêm một thân thể què cụt. Nó giống cái con gì nhỉ?
- Một con người đấy
chị Nga à. Không ai phủ nhận đó là một con người. Thế giới ngày nay
xuất hiện nhiều con người như vậy. Anh Sang nghĩ mà xem. Từ
Washington đến Moscow, từ Iran đến Iraq. Ôi thôi! Chúa phải ra tay
thôi! Cái con người của Ngài không vẹn nguyên hình hài ban đầu rồi!
- Em thấy nó lộ
tùng phèo lên anh à. Đôi khi nằm mơ thấy mình mọc cái đuôi, lông lá đầy
người. Hay là đến cái thời kỳ chúng ta trở lại con đười ươi như ông triết
gia nào đó đã đưa ra cái thuyết biến hóa gì đó.
Sang nhìn Nga đùa:
- Như vậy em vừa
công bố thuyết “lùi hóa” rồi đấy.
- Thôi. Tiến
hay lùi gì cũng được, chúng ta ăn trưa đi. Tôi đói lắm rồi – Tùy nói.
Ba người ngồi quanh tấm ni lông dưới cái nắng trưa đã bắt đầu
dịu lại để thời gian chảy vào buổi chiều. Nga cắt từng khoanh bánh mì và
kẹp thịt đưa cho từng người. Sang cầm miếng bánh mì đưa lên mũi ngửi, rồi
cắn một miếng, anh nói:
- Tôi phục ông tác
giả “Cái chuồng khỉ”. Hồi năm 67, 68 gì đó, tôi nghe nói về Blao thăm anh
ấy. Một hôm, cùng vợ chồng anh ngồi ăn bánh mì, như chúng ta hôm nay. Thế
là anh ấy nói về bánh mì. Tận ngọn nguồn. Qua từng thời kỳ.
Chi tiết. Rõ ràng. Có dẫn chứng. Tuyệt. Một cái đầu
siêu phàm. Bánh mì chỉ là một đề thi nhỏ thôi đấy. Anh ấy đi từ
Hienghène, Karl Marx, Sartre, Chúa Trời, Thích Ca … Nhưng con người kỳ dị đó chẳng
công nhận ai cả. Thiên hạ nhìn anh thấy anh có một cái đầu què quặt.
Nhưng để tìm một cái đầu như thế cũng khó lắm đấy.
Nga nhìn Sang:
- Anh ăn đi.
Nói hoài không biết chán. Còn phải đào bới tìm cái bàn chân của anh nữa chứ.
Tùy nói:
- Ăn xong, hai người
ngồi đó mà mơ mộng. Để tôi đào. Nghe người phụ nữ khi trưa nói
chưa? Đừng có mà đi lang thang.
-
Không. Tôi đi với ông. Em ngồi đây, cố chợp mắt một tí – Sang
nhìn Nga âu yếm – Em lận đận với anh nhiều rồi. Đừng để anh phải ngồi mà
khóc em. Chúng ta sẽ cố xong việc, về sớm để còn nhìn cho rõ đường mòn mà
đi. Ra tới đường cái cũng mất vài tiếng chứ không ít.
Nga nguýt Sang một cái rỏ dải:
- Anh mà cũng biết
khóc à? Gớm! Nghe mà cảm động. Thôi em chết cho rồi để còn được
nghe anh khóc. Ôi chao! Cái thời buổi này sao em thấy tìm một giọt
nước mắt cho tình yêu khó quá. Anh Tùy có bao giờ khóc cho tình yêu chưa
chứ anh Sang nói em nghi ngờ quá.
- Nói thật với chị,
nước mắt của loài người đã khô cạn lâu rồi. Mấy mươi năm chiến tranh dằng
dặc, con người đã khóc triền miên qua bao đổ nát. Người ta khóc lúc mặt
trời vừa mọc ngoài ruộng đồng. Người ta khóc lúc hoàng hôn khi chưa kịp
ăn bữa cơm chiều. Người ta khóc trên nền nhà cháy rụi. Người ta
khóc dọc đường tản cư. Người ta khóc trên rừng. Người ta khóc dưới
biển. Khóc người thân, bạn bè. Khóc trước kẻ thù. Ôi nước mắt
loài người đã tuôn cạn lâu rồi. Tuổi trẻ chúng ta đâu có khoảnh khắc nào
yêu đương. Mà có đi nữa thì nước mắt cũng khô cạn rồi chị ạ.
- Anh nói chi nghe
mà rầu thúi ruột.
Nga trầm ngâm, nhìn Sang rồi nhìn xuống ngực mình nơi hai bầu
vú của nàng đang rung lên thổn thức như ngầm nói với trái tim nàng:
Không! Vẫn còn có TRÁI TIM. Trái tim con người. Trái tim nhân
loại. Không thể khô cằn như thế.
Nga ngồi buồn rười rượi. Hai người đàn ông mang dụng cụ
đi về phía mô đá tổ ong cách đó non trăm mét. Nàng nói vói theo:
- Đi cẩn thận nghe
hai anh. Nhìn kỹ chỗ nào có dấu mòn mà đi.
Sang quay lại:
- Cảm ơn em.
Đừng căng thẳng quá như thế. “Anh không chết đâu em”.
Sang vừa hát vừa khập khiễng bước theo Tùy. Mặt trời
đã dịu hẳn. Tùy đến bên mô đá tổ ong, xác định lại vị trí. Dấu vết
hơn ngần ấy năm vẫn chưa bị thời gian làm thay đổi nhiều. Chỉ có mô đá tổ
ong hình như nhô cao hơn. Có lẽ do đất bị xói mòn.
- Thấy có gì lạ
không anh Tùy? Anh có ngại gì không? Hay để tôi đào cho. Anh đến chỗ
Nga ngồi nghĩ đi. Lỡ có nổ thì một người lãnh. Dại gì mà hai thằng cùng
lãnh.
Sang tần ngần nhìn Tùy và nói thế nhưng Tùy cương quyết:
- Không có gì đâu,
thiếu úy, à, anh Sang à. Chẳng lẽ mìn rãi trên từng phân vuông sao? Tôi chỉ
nghe người ta nói đi tìm xác đồng đội, thân nhân chứ chưa bao giờ nghe người ta
nói về một người đi tìm chính thịt xương của mình, như ông, ông Sang à.
- Anh Tùy biết
không, tôi thường nằm mơ thấy mẹ tôi, bà nói với tôi: “Con có cái bàn chân giống
bàn chân bố con lắm!” Rồi bà khóc. Tỉnh giấc, tôi co chân lên sờ
vào cái chân bị cụt, và không thể nào ngủ lại được.
Trầm ngâm một lát rồi anh tiếp:
- Mẹ kiếp, vào cái
lúc mà trên sống dưới chết, vào cái thời con người luôn đi trong bóng đêm của
thần chết, cụt mất cái chân để được ra khỏi bóng đêm đó. Mẹ kiếp, lúc đó
tưởng mình may mắn. Mình lại cảm tạ đất trời, cảm ơn cái thằng ôn dịch
nào đó đã gài trái mìn. Để rồi bây giờ đi đứng trong thế giới của những
con vượn hai chân này mình lại thấy khổ sở. Thôi thì, như tôi đã từng nói
với ông: ĐÃ LÀM MỘT NGƯỜI CHƯA TRỌN VẸN THÌ CỐ MÀ LÀM CHO TRỌN VẸN MỘT CON MA,
đừng làm một con ma què cụt.
Tùy cặm cụi đào. Bỗng anh la lên:
- A! Đây rồi! Còn
đây ông Sang ơi. Tôi thấy nó rồi.
Sang vội vồ tới, chụp cái xẻng nơi tay Tùy:
- Để tôi. Để
tôi.
Rồi anh bỏ cái xẻng sang bên.
- Không được, phải
dùng tay mà bới.
Anh dùng mười ngón tay của mình bới từng bụm đất nhỏ, từ từ,
thong thả, nhè nhẹ, như sợ kinh động xương cốt người chết. Hai ngón tay
anh chạm phải mảnh thép, chảy máu, máu nhỏ xuống trộn vào lớp đất nâu đen có phần
xương thịt anh tan hòa trong đó. Anh nhón tay lấy mảnh thép lên, vài lóng xương
ngón chân vướng theo màu vàng đục. Tùy đưa anh mảnh vải đỏ đã cẩn thận
mang theo. Anh trải mảnh vải lên mặt đất, nhặt từng mảnh xương, đặt cẩn
thận lên đó.
- Mẹ ơi đây là
xương thịt của con.
Anh đưa một lóng xương nhỏ cuối cùng lên hôn, cẩn thận gói
toàn bộ xương bàn chân lại, bọc thêm một lớp giấy báo rồi bỏ vào một túi ni
lông. Anh ôm nó vào người, ngồi nhìn về phía Nga, nàng cũng đang gióng mắt
về phía hai người.
Sang nghe tim mình nhói đau và nhịp yếu ớt, như bao nỗi bi
thương dồn về làm trương những mạch máu, dồn nén, ứ đọng, cơ hồ sắp bung vỡ ra,
những giây thần kinh nơi chóp cái bàn chân cụt giật giật nôn nao niềm khao khát
được nối liền với bàn chân đã mất.
Thế là về với ta hỡi xương thịt của ta, về với ta hỡi một phần
cơ thể của ta, một phần nhỏ bé nhưng lớn lao vô cùng, nó đã giúp ta đi đứng
đàng hoàng những bước đi của con người. Sang chợt nhớ tới một người bạn
đã không may mắn như anh: Mai Đình Hanh! Tao vẫn còn may mắn hơn mày hỡi Mai
Đình Hanh. Hai mươi tuổi mày đã bỏ cả hai chân nát bấy bầy nhầy nơi cánh
rừng nào đó của miền Thượng du Trung Việt. Bây giờ tao biết mày vẫn còn sống,
sống cơ cực và bi đát ở một vùng quê nào đó. Mày không còn đủ hai chân để
đi về cõi chết. Mày bò lê trên mặt đất như một con thú già nua bệnh tật
không nhớ nỗi tên mình, không biết mình là ai thì làm sao biết còn có con người
trên trần gian này. Tao may mắn hơn mày bởi vì tao vẫn còn cà thọt trên nạng
gỗ, tao vẫn tìm thấy xương thịt tao cho dù đã mục rã. Tao chưa hy sinh
cho ai, nhưng mày, mày đã hy sinh cho ai? Tuổi thanh xuân và máu thịt
thanh xuân. Bắn bỏ mẹ nó đi bọn đầu cơ chính trị, bọn đầu cơ chiến
tranh. Bọn ra rã nhân danh tự do, công bằng nhân ái. Bây giờ mày bỏ
đi như một con thú già bệnh tật có đứa nào đứng cúi đầu trước mày gắn cho cái
chiến thương bội tinh và cho mày mấy đồng trợ cấp? Mẹ kiếp! Tao đếch cần!
Cũng chỉ là trò đểu!
Ba người lần theo con đường mòn xuyên qua mấy đám cỏ dại tới
những vạc ruộng mùa này đã khô và nứt nẻ. Chạy dọc theo mấy đám ruộng là
con đường rãi đá, con dường giao thông chính dẫn tới quốc lộ I. Hai bên
nhà cửa thưa thớt lụp xụp, mái lợp tranh thấp lè tè. Con người ở đây lầm
lì, cặm cụi làm việc, chẳng ai quan tâm tới ba người khách lạ vừa đi vừa quan
sát họ. Một vài đứa nhỏ, quần cộc, ở trần, da đen nâu, ngồi vắt vẻo trên
lưng trâu im lặng chăm chú nhìn một cánh diều bằng giấy đang lơ lững cô độc
trên cao.
Sang bước từng bước gập ghềnh, hai chân không cân đối nên
dáng đi của anh nghiêng nghiêng và hơi đổ về phía trước. Nga ái ngại:
- Anh ổn chứ?
- Được, không
sao. Đi đứng trong đời bằng cái chân giả thì phải cố làm ra vẻ cho nó
không giả.
- Sao lại phải rắc
rối vậy ông Sang? Tùy nói. Ông đang bước đi bằng cái chân giả nhưng
là những bước đi rất thật của cuộc đời còn lại.
- Anh Sang thì lúc
nào cũng cay đắng thế. Ngày xưa em yêu anh thế nào thì bây giờ vẫn thế.
Không ai nhìn anh khác đâu.
- Có thể. Có
thể không ai nhìn anh khác đi. Nhưng anh? Anh nhìn quá rõ mình đã
khác đi rất nhiều, em ạ. Thí dụ thế này nhá. Khi anh lên giường với em,
vâng, thì không thể nào lại mang theo cái bàn chân giả. Và em, em có thấy
hứng thú không khi thấy cái mỏm chân cụt của anh đang ngo ngoe như cái đầu của
một quái vật kỳ dị.
Nga chùng xuống:
- Thôi anh đừng
nói nữa, anh cứ mãi khổ sở thế này thì làm sao mà sống. Mà bây giờ anh
cũng đạt cái tâm nguyện của anh rồi, và bên anh lúc nào cũng có em, có bạn bè.
Sang đọc lẩm bẩm: “May mà có em đời còn dễ thương”. Ôi
Vũ Hữu Định, mày đã nói thế sao mày bỏ đi? Đời còn dễ thương quá sao mày
bỏ đi? Nga ơi! Bạn bè ta ơi! Ta đang bước đi khập khiễng bên các
người. Bàn chân ta què cụt hay tâm hồn ta què cụt? Nhân danh điều
gì để ngợi ca một con người què cụt đã hy sinh vì những tham vọng của những
quái thai lịch sử.
- Anh Sang ơi.
Nghe tiếng Tùy, Sang quay lại, không đợi Tùy hỏi điều gì,
anh nói: “Chúng ta đón xe về Cẫm Hải chiều nay, trước để anh và Nga thăm mộ má
tôi, và tôi gởi bàn chân này lại cho má giữ hộ. Quay về thành phố vẫn kịp,
đừng lo.
Đó không phải là một nghĩa trang rộng lớn, chỉ là một khu đất
lồi lõm lỗ chỗ những gò và hố. Mồ mã cũng không nhiều và chôn cất bình
thường, không xây gạch đá như những nghĩa trang lớn, thường chỉ đắp một mô đất
và có đặt một tấm bia ghi rõ họ tên, ngày sinh, ngày chết của người quá cố.
Một khu chôn cất như bao khu chôn cất của làng xã Việt Nam từ bao đời
nay. Mồ mã chen lẫn với vườn cây, ruộng rẫy, đôi khi nằm ngay sau
nhà. Người sống và người chết không muốn xa nhau. Dù người chết đã
vĩnh viễn về cõi bên kia, nhưng trong lòng người còn lại vẫn cảm nhận họ còn ở
đâu đó trong từng ngóc ngách của ngôi nhà. Họ còn ở đâu đó ngắm, dõi theo
đời sống của cháu con. Và người còn sống nghĩ rằng họ sẽ được người chết
phù hộ độ trì, bởi vậy họ càng ăn ở theo đạo lý nhân đức. Họ không bao giờ
quên những ngày giỗ kỵ. Sang không biết má anh có biết anh luôn thương nhớ
bà, niềm thương nhớ vô bờ đó đã giúp anh bước đi những bước khập khiễng trong
quãng đời còn lại của mình bình an hơn.
Anh tìm thấy mộ mẹ mình nhanh chóng, bởi anh rất thường về
đây đốt nhang cho bà. Sau khi thắp nhang khấn lạy trước mộ, anh bảo Tùy
đưa cái xẻng và tự tay đào một cái hố nhỏ bên cạnh phần mộ của mẹ, hơi dịch về
phía dưới một chút.
Không tháo cái bọc ra, anh cẩn thận đặt bọc vào cái hố con rồi
lấp đất lại. Xong anh nhờ Tùy khiêng một tảng đá gần đó đặt đè lên.
Lấy bó nhang Nga đã đốt sẵn, anh một lần nữa, trước mộ mẹ mình:
- Lạy má, đây là một
phần thân thể của con, một phần nhỏ trong hình hài con mà má đã mang nặng đẻ
đau, con gởi nó đây, bên cạnh má. Mai kia chắc chắn có ngày con sẽ về
đây, vĩnh viễn bên má, còn có cái bàn chân này, con sẽ được ở bên má trọn vẹn
hình hài, má sẽ thấy con đầy đủ chân tay, không còn là một con người què cụt nữa.
Anh cắm hết bó nhang trước mộ, quày quả bước đi. Tùy
và Nga vội vã bước theo anh. Ở đâu đó gần đây, vang lên tiếng chuông mõ
và tiếng kêu khóc. Hình như có một đám tang.
Lê Nam Phương
(tức Lê Văn Trung)